Anh dùng tấm biển làm một chữ thập, buộc nó vào một cành cây
mesquite.
Nhưng tên của Gus lại không có trên tấm biển mặc dù đây là mộ anh.
Call lấy dao định khắc tên vào nhưng gỗ rắn và nứt toác, anh sợ có thể làm
vỡ nó mất. Cuối cùng anh chỉ khía được hai chữ A.M ở mặt bên kia của nó.
Nó sẽ chẳng bền đâu, anh biết ai đó không tìm ra công ty nào ở đây sẽ cáu
mà đá tung nó đi thôi. Dẫu sao thì Gus cũng đã được ở chỗ mình muốn. Và
Call biết thiếu gì nhân vật hay ho nằm dưới những nấm mồ vô danh.
Mệt nhoài, vết thương chảy mủ. Call thấy mình không còn sức đâu mà
về lại Montana và dù anh có sức đi nữa thì con ngựa cũng chẳng chịu.
Call quay về phía Nam, đến San Antonio, nghĩ tìm thấy được một bác
sĩ. Nhưng khi tới nơi thì anh cứ quanh quẩn mãi; hình như anh bắt đầu sợ
thấy người. Anh lại cưỡi con ngựa phờ phạc đi tiếp xuống phía nam, cảm
thấy có thể đi đến Bồ Câu Cô Đơn hay bất cứ một chỗ nào khác.
Qua con sông Nueces xanh rờn, anh nhớ lại những con rắn và cậu thanh
niên Ireland. Anh biết nên vòng qua tìm bà góa Spettle báo cho hay bà đã
mất một đứa con nhưng lại quyết định các tin không lành thì có thể đợi. Nó
đợi cũng đã một năm rồi.
Anh vào Bồ Câu Cô Đơn cuối một ngày tháng Tám chỉ để sửng sốt lên
vì tiếng chuông báo ăn ròng rã, cái tiếng chuông Bolivar thích quạng bằng
một thanh xà beng gãy. Tiếng chuông làm anh ngỡ mình đang đi vào xứ sở
những hồn ma. Anh cảm thấy mụ mị đi, nghĩ thầm lúc về nhà chắc bọn trẻ
đã đều ở cả đó.
Nhưng khi anh lóc cóc băng qua những bụi sồi gai đến nhà kho của Hat
Creek thì anh nhìn thấy chính là lão Bolivar đang đánh chính cái chuông xưa
với chính cái xà beng ngày ấy. Tóc ông già đã bạc và tấm chăn quàng người
thì hôi hám hơn bao giờ.
Nhìn lên, thấy Call hiện ra trên mình ngựa trong ánh mặt trời lặn sau
lưng, Bolivar quẳng thanh xà beng, suýt nữa thì trượt chân ngã. Lần ông trở
về Mexico là một thử thách và một thất vọng. Các con gái ông đã lấy chồng