Ông thở khó nhọc và toàn thân thì mệt lử, còn chân tay rời rã đến
mức không muốn cử động. Cơ thể sưng phù và sút cân, những cơn ho
dữ dội kèm theo đờm thì cứ nặng dần lên, khiến khuôn mặt ông ngày
một thêm xanh xao. Đó là chứng bệnh bụi phổi, căn bệnh kinh khủng
do bụi than chồng chất khiến cho phổi bị cứng lại.
Ông đã nhập viện điều trị trong suốt hơn một năm, nhưng căn bệnh
không hề có dấu hiệu thuyên giảm. Bệnh bụi phổi là chứng bệnh nan y
hoàn toàn không có cách nào chữa khỏi. Chỉ có thể áp dụng các biện
pháp nhằm ngăn ngừa biến chứng và phòng ngừa bệnh diễn biến xấu
đi một cách nhanh chóng mà thôi.
Ông chỉ muốn xuất viện. Ông không có lý do gì ở lại bệnh viện để
chờ đợi cái chết cả. Hoàn cảnh gia đình ông khi ấy vô cùng khó khăn,
tiền học cho các con rồi còn sinh hoạt phí của cả gia đình, tất cả đều
trông chờ vào đồng lương công nhật ít ỏi ngày ngày người vợ chật vật
mang về. Cuộc sống vốn đã khốn khó, ông thấy thật vô liêm sỉ nếu bắt
người vợ cực nhọc phải vất vả chăm sóc bệnh tật cho cả mình nữa.
Hơn một tháng sau khi xuất viện, ông đã viết một bức thư coi như
di chúc rồi đi khỏi nhà. Ông mang theo một đấu gạo và một bát đậu
tương rồi đến Sarakgol, tự khoét cho mình một căn hầm trên triền núi.
Ông đã ở trong căn hầm giống như ngôi mộ ấy, chờ đợi cái chết sau
khi leo lắt sống hết cuộc sống như ngọn nến trước gió.
Đến lúc một đấu gạo đã hết sạch mà sự sống vẫn chưa kết thúc, thì
thay vì cái chết, cái đói lại trở thành vấn đề hết sức cấp thiết. Ông đã
xoa dịu cái bụng đói khát bằng các loại quả và nấm tìm được xung
quanh. Đôi khi người dân Sarakgol lại cho thêm ông ít lương thực như
khoai tây hay hạt kê. Một người bán dược thảo nói rằng độc xà là tốt
nhất cho bệnh phổi nên ông cũng đã nấu xúp rắn để ăn nữa.
Dần dần cơ thể ông có sự thay đổi. Hồi đầu, khi mới đến Sarakgol,
ngay cả quãng đường ngắn đi xuống khe suối để uống một ngụm nước
cũng khiến ông phải dừng lại đến mấy chục lần mà thở dốc. Nhưng rồi
thời gian càng trôi đi, số lần ông phải nghỉ ít dần, và hy vọng sống của