tới chạy thoát thân. Tôi nhanh chóng đỡ ngài mục sư dậy, tránh ra khỏi
đường chạy của nó vừa kịp lúc.
Có lẽ chúng tôi chẳng thể làm gì cho Winn-Dixie để khiến nó cảm thấy
dễ chịu hơn, nên chúng tôi chỉ ngồi đó nhìn nó chạy qua chạy lại, hãi hùng
và hổn hển. Và cứ mỗi khi có một tiếng sấm khác, Winn-Dixie lại hành
động như thể đấy là tận cùng thế giới.
“Cơn bão sẽ không diễn ra lâu nữa đâu,” ngài mục sư nói với tôi. “Khi nó
kết thúc, hẳn là Winn-Dixie sẽ bình thường trở lại.”
Một lúc sau, bão cũng kết thúc: mưa ngừng rơi, chớp ngừng lóe sáng và
sấm chớp đùng đùng cũng tan biến. Winn-Dixie cũng thôi không chạy tới
chạy lui nữa mà tiến đến chỗ tôi và ngài mục sư đang ngồi, nghiêng nghiêng
cái đầu như thể đang dò hỏi: “Hai người đang làm cái quái gì ở đây vào lúc
nửa đêm thế này?”
Rồi nó trườn lên đi văng theo cung cách buồn cười vốn dĩ của nó, đẩy
mình tiến từng centimet một, gần như là đang trượt vào ghế, trong khi mắt
vẫn ngó lơ đi nơi khác, giả bộ như mọi chuyện diễn ra hoàn toàn tình cờ, cứ
như nó không hề có ý định trèo lên đi văng vậy. Và rồi thật bất ngờ, nó lại ở
trên ghế.
Cả ba chúng tôi ngồi ở đó. Tôi xoa đầu Winn-Dixie và gãi phía sau tai nó
như nó vẫn thích. “Mùa hè Florida dông bão rất nhiều,” ngài mục sư nói.
“Vâng,” tôi trả lời, lo sợ ông sẽ nói rằng chúng tôi không thể giữ một con
chó luôn lên cơn hoảng loạn do một nỗi sợ hãi tâm lý mỗi khi trời nổi sấm.
“Chúng ta sẽ phải để ý tới nó,” ông vòng một tay ôm lấy Winn-Dixie.
“Chúng ta phải đảm bảo không để nó ra ngoài trong cơn bão. Nó có thể sẽ
đi mất. Chúng ta phải đảm bảo nó sẽ được an toàn.”