hiền hoà, trong dìu dịu trăng vàng, lung lay vạt cỏ reo hát. Thiên nhiên
thanh bình tuyệt đối, sự thanh bình mà chỉ tình người mới có thể mang đến.
Bao nhiêu nỗi buồn, sự uẩn ức trong tôi dãn ra đột ngột. Lòng tôi như một
nương ngô nẩy bắp tươi tốt sau cơn mưa rừng hối hả. Người đàn ông vẫn
nhìn tôi trìu mến. Dưới ánh sáng của vầng trăng đêm, bây giờ tôi ngó kỹ,
làn da nâu bóng và trên hết, đôi mắt to đen bất tận. Cái nhìn của một con
người. Không phải đôi mắt sưng him híp nghi ngờ của Công, không phải
đôi mắt ướt nhẹp ươn hèn của Trí. Lạ thay, tôi không còn sợ đôi cánh tay bị
bào nhẵn của ông ta như ban nãy, hai cườm tay trống rỗng chỉ còn trơ lại
vài ngón quơ quạng, tự cấu xé thân mình rách bươm tóe máu.
“Chào chú. Tôi mới ở ngoài Bắc vào đây. Phong cảnh vùng này đẹp
quá”.
Đuôi mắt người đàn ông khẽ rung lên vài nhịp, rung nhẹ như dây đàn
vô hình.
“Chú tên gì, nhà chú có gần đây không? Sao khi nãy chú hét ghê thế?
Có phải chú bệnh hủi không?”
Sau này trở lại, ông nói cho tôi biết về sự đau đớn cùng cực thể xác
mỗi đêm trăng sáng của những người Thượng bị hủi, tôi mới biết tại sao
ông lại múa máy dưới trăng và hét lên thảm khốc đến vậy. Mới hiểu tại sao
khi tôi hỏi câu hỏi ngu ngốc ấy, ánh mắt ông đã bỏ chạy bằng bước chạy rối
rít dây leo. Một ngày, tôi đem thắc mắc của mình trút vào đôi mắt người
đàn ông:
“Trăng sáng chiếu vào vết thương sẽ bị đau đớn hơn, sao chú lại ra
giữa rừng núi nơi ánh trăng soi rọi mà hứng chịu? Người như chú rất sợ
nước, sao chú lại đến gần sông Ba đêm trăng sáng?”
Đuôi mắt ông hằn in nhiều rãnh nhăn. Miệng ông thoáng một nụ cười.
Cũng có thể do tôi hoa mắt, chứ khuôn mặt ông vẫn buồn vàng như màu
hoa quỳ trơ trơ nở trên đồi cao. Đôi cánh tay thương tích, lở loét được buộc
chặt bởi miếng vải màu nâu đưa đi đưa lại mũi dao xỉn cũ. Tôi không thể
hiểu làm sao chỉ với bàn tay còn hai ngón, ông lại có thể tỉ mẩn vót nan và
đan được những chiếc gùi chắc chắn nhường vậy. Nhìn ông làm, tôi cứ nghĩ
ông vót nan không phải bằng cách thông thường nhưng bằng trái tim, niềm