dọn sân ga. Hai tuần sau vợ anh tới, và Semion đi xe goòng đến bốt canh
của mình. Bốt canh còn mới, ấm áp, tha hồ củi, một vườn rau nhỏ của
những người gác trước để lại, và nửa mẫu đất cày ven đường sắt. Semion
mừng rỡ, bắt đầu nghĩ chuyện trồng trọt, mua bò, mua ngựa.
Người ta trang bị cho anh những đồ vật cần thiết: cờ xanh, cờ đỏ, đèn pha,
còi, búa, cờ lê, xà beng, xẻng, chổi, bulông, đai ốc, đinh tán; lại giao cho hai
cuốn quy định và bảng giờ tàu. Thời gian đầu Semion đêm không ngủ, học
thuộc bảng giờ tàu. Tàu cứ hai tiếng mới đi qua, nhưng anh đi vòng quanh
khu vực của mình, rồi ngồi trên ván trong bốt canh, cứ nhìn và lắng nghe
xem đường ray có rung không, tàu có kêu không. Thậm chí anh còn học
thuộc cả các quy định, mặc dù đọc khó khăn, phải đánh vần từng chữ,
nhưng vẫn học thuộc.
Vào mùa hè, công việc không nặng nhọc lắm, không phải quét tuyết, tàu lại
ít chạy qua tuyến đường này. Semion đi tuần quanh khu vực của mình hai
lần một ngày, hoặc vặn lại bulông, san đều lớp đá dăm, kiểm tra các ống
nước, rồi về nhà lo chuyện vườn tược. Mỗi tội chuyện trồng cấy của anh
không thuận lợi: nếu định trồng cái gì đều phải báo cho người quản lý, rồi
ông này báo lên ông giám đốc cung đường, trong khi lời thỉnh cầu được đáp
lại thì thời vụ qua mất rồi. Thành ra Semion và vợ đâm buồn. Hai tháng trôi
qua, Semion làm quen với những người gác lân cận. Một ông già cú khú đế,
lúc nào cũng sẵn sàng bị thay thế, hầu như không ra khỏi bốt canh, vợ ông
ta tuần tra hộ. Người thứ hai ở gần ga hơn là một người còn trẻ, nhỏ con
nhưng gân guốc. Semion gặp anh ta lần đầu tiên trên đường ray ở giữa hai
bốt canh, lúc đang đi tuần. Semion bỏ mũ nghiêng mình.
- Xin chào, chúc sức khỏe anh bạn láng giềng.
Anh bạn láng giềng liếc xéo.
- Chào. - anh ta nói.