bọn chúng là những kẻ rất sáng tạo. Chẳng lẽ kết liễu cuộc đời trong tay
chúng lại tốt hơn chết ở đây? Nhưng nếu như đó là quân ta thì sao? Ôi cái
bụi cây quái quỷ này! Tại sao chúng mày lại mọc thành hàng rào rậm rịt
quanh tao như vậy? Chẳng thể nhìn thấy gì qua đám cây, chỉ có một khoảnh
như ô cửa sổ nhỏ giữa các cành cây, có thể thấy chỗ trũng ở phía xa. Ở đó
có lẽ có một con suối mà chúng tôi đã uống nước lúc trước trận đánh. Phải,
có cả một phiến sa thạch lớn bắc ngang con suối như chiếc cầu con. Có lẽ
họ đi qua cái cầu đó. Tiếng nói tắt lặng. Tôi không nghe được ngôn ngữ họ
nói: cả thính giác của tôi cũng yếu rồi. Trời ơi! Nếu như đó là quân ta... Tôi
sẽ hét gọi họ; họ sẽ nghe thấy tôi cả từ chỗ con suối. Thế còn hơn là mạo
hiểm rơi vào tay của quân Thổ. Sao bọn họ mãi không đi thế nhỉ? Tôi khổ
sở vì nôn nóng, thậm chí không còn ngửi thấy mùi xác chết, dù nó không hề
giảm bớt đi tí nào.
Rồi bỗng nhiên trên chỗ cầu bắc qua dòng suối xuất hiện những người Cô
dắc! Những chiếc áo khoác màu xanh, những nẹp viền màu đỏ, những cây
thương. Họ có đến cả đại đội. Phía trước là một sĩ quan râu đen ngồi trên
con tuấn mã. Đại đội Cô dắc vừa qua con suối, viên sĩ quan quay cả người
ra sau và hét lên:
- Đi nước kiệu, bước!
- Dừng lại, dừng lại, vì Chúa! Cứu tôi với, cứu tôi, anh em ơi! - tôi kêu lên,
nhưng tiếng vó những con ngựa khỏe mạnh, tiếng giáo va nhau và tiếng nói
chuyện ồn ào của đám Cô dắc át tiếng thều thào của tôi. Người ta không
nghe thấy tôi!
Ôi khốn nạn! Tôi kiệt lực ngã sấp mặt xuống đất và bắt đầu nức nở. Từ cái
bi đông bị tôi làm đổ, dòng nước, sự sống của tôi, cứu tinh của tôi, sự trì
hoãn cái chết của tôi, chảy ra. Nhưng tôi chỉ nhận ra điều đó khi nước trong
bình chỉ còn không hơn nửa cốc, còn bao nhiêu đã chui xuống mặt đất khô
cháy tham lam rồi.