mới đến thăm, trước là để chủ cũ chủ mới căn nhà này làm quen với nhau,
sau là để yêu cầu thầy chấp nhận cho tôi được lui tới nơi đây dọn dẹp quét
tước vườn tược cửa nhà, may ra nhờ đó mà kiếm được một ít đồ vật đã mất
trước đây.
“Ðồ vật gì? Mà đồ vật gì mất trước đây?” Tôi tự hỏi nhưng không nói
ra, cứ lẳng lặng nghe bà ta nói.
Bà nói tiếp:
- Nhiều lắm, đồ vật nhiều không kể xiết, chính tôi cũng không biết số
lượng là bao nhiêu.
Tò mò quá, không chịu nổi, tôi bèn hỏi:
- Nhưng đồ vật gì, mệ có thể cho tôi biết được không?
Nhưng không để tai đến câu hỏi của tôi, bà cứ nói tiếp, và càng nói tôi
lại càng không hiểu.
Trong một thoáng, tôi cảm giác con người ta lúc chết đi mà cái hồn hiện
lên được ở dương trần thì không còn minh mẫn, như lúc sinh thời nữa. Hoặc
là lúc sống, chính thần kinh của bà ta đã không được thăng bằng rồi cho nên
lúc mất đi, những lời do cái bóng bà phát ra không có mạch lạc mà gần như
vô nghĩa lý. Bà nói tiếp:
- Phải, nhiều vô số kể, thầy à. Chẳng thế, họ lấy một lần không hết mà
phải lấy bốn năm lần đem đi, ấy là chưa kể bao nhiêu thứ khác mà họ đập
phá, họ giày xéo, họ lấy dao, lấy búa, lấy kiếm, lấy gươm ra đập cho tan
nát. Riêng những cái miểng còn sót lại cũng đầy cả ba gian nhà này, mà cao
ngang đầu người!
“Ngót hai chục năm nay tôi đã đi khắp sông ngòi đồi núi, tôi đã đi khắp
đầu chợ cuối thôn để tìm mà không thấy một món nào… Chẳng biết làm
sao, tôi đành phải đi tìm những miếng còn sót lại ở đây để gom góp lại đem
về ngắm nghía cho khuây khỏa nỗi tương tư, bởi vì trình với thầy, tôi tương
tư những món đồ vật ấy thật tình; không có, tôi thấy cái kiếp con người
hoàn toàn nhạt nhẽo, hoàn toàn vô nghĩa”.