rất nhiều mà chẳng làm sao hết, nhưng có những hôm khác chỉ làm mươi
tợp thì đã say rồi, có khi không cất chân lên nổi và ngã ngay nơi bàn tiệc.
Xuống hết thang gác, ông còn đứng lại nói với tôi một giây lâu về công
việc. Ông cười khá to, đi ra cửa, theo sau là giáo sư Tài cùng về một đường
với ông.
Lúc ấy là mười hai giờ ba mươi lăm phút.
Tôi vừa quay lưng lại sắp bước lên thang gác thì thấy ông Yên thét lên
một tiếng dữ dội trong đêm vắng. Giáo sư Tài, đi lui thủi ở đàng trước, cách
đó chừng năm bước, quay trở lại xem có chuyện gì thì tôi cũng vừa chạy ra
đến cửa.
Ông Trần Hữu Lăng nằm co quắp ở thềm nhà tôi như một đống giẻ
rách, mồm há ra như thể muốn kêu mà kêu không được, một chân duỗi ra,
một chân co lại, trông cực kỳ thê thảm.
Giáo sư Tài, ông Yên và tôi nâng ông dậy đem vào trong nhà. Người
ông lạnh toát. Ông Yên giựt gió, lấy dầu thoa khắp mình mẩy ông Lăng,
còn giáo sư Tài thì chạy vội kêu một cái tắc xi đưa vào nhà thương gần đó.
Tôi nói với ông Yên:
“- Ông Lăng bị gió độc đấy. Thế lúc ông ấy té, ông có nhìn thấy
không?”
“- Tôi nhìn thấy rõ từ đầu đến cuối. Ðúng là ông Lăng chưa bước chân
ra khỏi nhà mình, một chân ông còn để ở trong, một chân đương bước qua
cái thềm. Lạ không kể đâu cho hết, ông chủ à. Tôi tưởng là tôi mê, nhưng
không, không phải là tôi mê đâu. Nhứt định là tôi tỉnh. Mắt tôi nhìn thấy rõ
ràng mà”.
“- Nhìn thấy cái gì? Ủa, sao ông nói mà tay run lên bần bật thế?”
“- Vâng, tôi nhìn thấy rõ ràng. Ai nhìn thấy như tôi lúc bấy giờ mà
không sợ? Ngay bây giờ tôi còn sợ muốn chết đây này”.
Ðể cho ông Yên thở một giây tôi hỏi: