giá để bên nhau.”
Ông nắm lấy tay Tarawet, và tôi chợt thấy cái tên gọi của nơi này –
Cánh đồng đầy nắng – cũng không đến nỗi đáng chán.
“Cảm ơn vì tất cả, Bes” tôi nói.
“Cháu đùa à?” ông hỏi lại. “Cháu đã trả lại cho ta cuộc sống, và ý ta
không chỉ là hồi sinh cái bóng không đâu nhé.”
Tôi cảm thấy rõ rệt rằng hai vị thần cần có thời gian riêng với nhau,
nên chúng tôi tạm biệt và đi xuống phía hồ.
Cánh cổng cát trắng vẫn xoáy đều. Bast đứng kế bên, mê mải với
cuộn banh len. Cô đan sợi giữa các ngón tay, tạo thành một hình chữ nhật
như cái nôi cho mèo. (Tôi không cố ý chơi chữ, nhưng dường như cũng khá
phù hợp.)
“Có gì vui thế?” tôi hỏi.
“Ta nghĩ cháu muốn xem cái này.” Cô giơ cái nôi cho mèo lên. Hình
ảnh bỗng hiện ra như xem phim trên màn hình máy tính.
Tôi nhìn thấy Đại sảnh các vị thần với hàng cột cao vút, sàn nhà bóng
loáng, hàng trăm ngọn lửa đủ màu sắc đang bập bùng trong các lò than. Ở
ngay bục trung tâm, thay vào chỗ con thuyền mặt trời là một chiếc ngai
vàng. Thần Horus đang ngự trên đó trong hình hài con người – một chàng
trai vạm vỡ trọc đầu mặc bộ giáp sắt. Ông cầm móc câu và cây néo bắt chéo
trước bụng, đôi mắt phát ra ánh sáng – một bên màu bạc, một bên màu
vàng. Đứng bên phải ông là nữ thần Isis, mỉm cười đầy tự hào, đôi cánh cầu
vồng sáng lung linh. Bên trái là thần Set, vị thần Hỗn Mang với màu da đỏ
như máu, tay cầm trượng sắt. Trông ông ta có vẻ thích thú, như thể đang có
đủ mưu ma chước quỷ vạch ra cho sau này. Các vị thần khác quỳ xuống khi
được Horus gọi đến tên. Tôi lướt nhìn qua đám đông các vị thần để tìm
Anubis – cùng hoặc không cùng Walt – nhưng một lần nữa, vẫn không thấy
anh ấy đâu.
Tôi chẳng thể nghe được gì, nhưng tôi nghĩ chắc cũng giống bài diễn
văn của Carter đã đọc ở Ngôi Nhà Sự Sống.