hạ". Vua Hàm Nghi đỡ Tôn Thất Thiêp ngồi lên, nói: "Trẫm thử bụng thần
mà nói vậy thôi. Tam cung không chịu được gió táp mưa sa thì Tam cung
hồi cung cũng được. Phần Trẫm thì vẫn một chí hướng với quân tướng:
Kháng Pháp đến cùng. Trẫm và thần đồng tuế, đồng tâm, đồng sàng, đồng
mộng. Trẫm lên ngôi lúc sơn hà nguy biến phải lao lung như ri nhờ có được
thần ngày đêm cùng Trẫm chia cay xẻ đắng làm cho tuổi ngọc của Trẫm đỡ
phần lạnh lẽo. Vậy nên, hai ta là: Chiến sĩ nhi đồng cứu quốc vong!!!"
Ngày phụ chánh đại thần kiêm thượng thư bộ Lại Nguyễn Văn Tường hộ
giá Tam cung trở lại kinh đô Huế, Đức vua lấy cớ vi hòa (ốm) không đến
chầu bái biệt. Cha đã bỏ công tìm hiểu chặng đường bá thiên của Vua:
Ngày 23 tháng năm Ất Dậu (5/7/1885) Vua từ hoàng cung đến La Chữ.
Ngày 24 tháng năm (6/7/1885) Vua tới thành cổ Quảng Trị. Ngày 27 tháng
năm (9/7/1885) Vua rời Quảng Trị đi Sơn phòng Quảng Trị, ngày 1 tháng
sáu (12/7/1885) thấu bản doanh. Ngày 9 tháng sáu (20/7/1885) Vua đến
Bảo Đài, xã Thủy Ba, sát địa giới tỉnh Quảng Bình. Ngày 11 tháng sáu
(22/7/1885) Vua phải quay trở lại Cam Lộ. Ngày 15 tháng sáu (26/7/1885)
Vua ngược thượng đạo, trèo qua dãy núi Mai Lĩnh (Quảng Trị) đến đồn
Chấn Lào. Ngày 20 tháng sáu (31/7/1885) Vua rời Chấn Lào đi theo đường
sơn cước ra tới đồn Quy Hợp, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Hành tại
tạm đặt ngay Sơn phòng Hà Tĩnh. Ở đây bốn tháng thì ngày 16 tháng mười,
năm Ất Dậu (22/11/1885), Vua lại phải quay trở lại vùng rừng núi Quảng
Bình, hành tại ở Cửa Kha. Về sau thiên đến Tá Bào. Cái ngày dời đến La
Chữ thì quan thân thần đã vâng lênh Vua viết tờ thông cáo, báo cho thần
dân cả nước biết, Vua đã bá thiên và quyêt tâm kháng Pháp lâu dài. Dời tới
Hà Tĩnh, Vua xuống Hàm Nghi Đế Chiếu, thường gọi là: Chiếu Cần
Vương. Chiếu vừa ban xuống, khắp nơi các bậc khoa bảng, tai mắt, các nhà
hằng tâm hằng sản, dân chúng, nam phụ lão ấu đều hưởng ứng nhiệt liệt.
Nổi vang nhất là cuộc nổi dậy của quan Đình Phan Đình Phùng và của
quan Tán Tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, nhạc phụ của quan thân
thần Tôn Thất Thuyết. Dân quen gọi là quan Tán Thuật lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa Bãi Sậy, tỉnh Hưng Yên.