quá trình chậm chạp của mình từ Os Alta đến Balakirev, men theo những
ngôi làng nhỏ ở Chernitsyn, Kerskii và Polvost, đồng thời cố gắng không từ
bỏ hy vọng. Tôi còn cả quãng đường dài mới đến được vùng Vực, nhưng tất
cả những gì tôi có thể làm là tiếp tục di chuyển và mong rằng vận may của
mình sẽ được giữ nguyên.
“Mày vẫn còn sống,” tôi tự nhủ trong bóng tối. “Mày vẫn còn tự do.”
Thi thoảng, khi bắt gặp những người nông dân và khách lữ hành khác, tôi
đeo găng tay và giữ chặt cán dao phòng trường hợp có rắc rối xảy ra, nhưng
họ không mấy chú ý đến tôi. Tôi đói bụng thường xuyên. Tôi mãi là vẫn một
thợ săn tồi nên chỉ có thể sống bằng nguồn lương thực ít ỏi đã mua ở
Balakirev, uống nước từ sông suối, và thi thoảng trộm trứng hoặc táo từ một
nông trại lẻ loi trên đường.
Tôi không biết tương lai chứa đựng những gì, hoặc có gì đang chờ tôi ở
phía cuối cuộc hành trình rệu rã này, nhưng không hiểu sao, tôi lại không
cảm thấy khốn khổ. Tôi đã cô độc suốt cuộc đời, nhưng tôi chưa bao giờ thật
sự cô đơn, và nó không quá đáng sợ như tôi đã tưởng.
Một sáng nọ, khi bắt gặp một nhà thờ nhỏ quét vôi trắng, tôi đã không
cưỡng lại được mà lẻn vào trong để nghe linh mục giảng đạo. Khi bài giảng
kết thúc, người linh mục bèn nói lời chúc phúc cho giáo dân: cậu con trai
của một người phụ nữ vừa bị thương trong chiến tranh, một đứa trẻ sơ sinh
đang sốt cao, và cả lời nguyện cầu cho Alina Starkov được khỏe mạnh. Tôi
rụt người lại.
“Hãy để chư vị thánh thần bảo vệ Tiết Dương Sư,” người linh mục cao
giọng cất tiếng, “cô ấy là người được gửi đến để cứu rỗi chúng ta khỏi tà ác
của Vực Tối và thống nhất quốc gia này một lần nữa.”
Tôi nuốt khan rồi nhanh chóng cúi đầu chạy khỏi nhà thờ. Bây giờ thì họ
đang cầu nguyện cho mày, tôi chán chường thầm nghĩ. Nhưng nếu Hắc Y
xong việc, họ sẽ quay sang ghét bỏ mày. Và có lẽ họ nên làm thế. Không
phải tôi đang bỏ rơi Ravka và tất cả những người đang tin vào tôi sao? Năng
lực của tôi là thứ duy nhất có thể phá hủy vùng Vực, mà tôi lại đang trốn
chạy.