sức hồi sinh, làm cho nó mạnh thêm. Cuối cùng, một hôm người trở về tu
viện, quả quyết thưa với cha bề trên: “Bây giờ con đã sẵn sàng. Nếu ý Chúa
muốn, con sẽ hoàn thành được công việc.”
Đề tài cha tôi chọn là cảnh chúa Jesus giáng sinh. Trong suốt một năm,
cha tôi không làm việc gì khác, không ra khỏi phòng ăn, ăn uống rất đạm
bạc, chỉ vừa đủ để sống, luôn luôn cầu nguyện. Sau một năm, bức tranh vẽ
xong. Thật là một kỳ quan của nền hội hoạ. Cũng cần phải nói rằng cha bề
trên cũng như các tu sĩ không có ai hiểu biết gì nhiều lắm về hội hoạ,
nhưng mọi người đều kinh ngạc về cốt cách thần thánh dị thường ở các
nhân vật. Cái phong độ dịu dàng và nhẫn nhục cao quý trên gương mặt Đức
Mẹ đồng trinh đang cúi xuống nhìn Chúa Hài đồng, cái thôi minh chí cao
trong đôi mắt của chúa Jesus lúc nhỏ, như đã nhìn thấy trước tương lai, sự
im lặng trang nghiêm trong cảnh các vua pháp sư phủ phục dưới chân
Chúa, kinh ngạc trước phép màu tuyệt diệu và cuối cùng là cái tĩnh mịch
thiêng liêng, khó tả bao trùm lên toàn bộ bức tranh, tất cả đượm nhuần một
sức mạnh điều hoà quá, một vẻ đẹp hùng vĩ quá khiến cho ấn tượng nó gây
nên thật kỳ diệu. Tất cả các tu sĩ đều quỳ xuống trước bức tượng thánh, và
cha bề trên cảm động thốt lên: “Không, chỉ với nghệ thuật của con người
thôi thì một người không thể nào sáng tạo nên được một bức tranh như thế
này: bàn tay thiêng liêng của Chúa đã hướng dẫn cây bút của con và phép
lành của Người đã thấm vào tác phẩm của con.” Hồi đó, tôi vừa tốt nghiệp
trường Mỹ thuật, tôi được thưởng một huy chương vàng và có triển vọng
tươi đẹp sẽ được đi du lịch sang Ý, cái ước mơ đẹp nhất của một hoạ sĩ hai
mươi tuổi. Tôi chỉ còn phải đến từ biệt cha tôi, mà đã mười hai năm nay tôi
không được gặp. Xin thú thực, ngay đến hình ảnh của người cũng đã từ lâu
phai nhoà trong ký ức tôi. Tôi đã được nghe nói ít nhiều về cuộc sống khổ
hạnh chân tu của cha tôi và tôi đã hình dung ra trước một vị ẩn sĩ khắc khổ,
xa lạ với sự vật trên trần thế, chỉ biết căn phòng với cầu nguyện, người hốc
hác, khô đét đi vì nhịn ăn lâu mãi và những buổi thức đêm. Nhưng tôi kinh
ngạc biết chừng nào khi thấy trước mặt mình là một ông cụ già quắc thước
lạ thường, tiên phong đạo cốt! Không một dấu vết suy nhược nào trên