- Hắn sẽ khai! - Ma-đi thì thầm với Ti-đu - Chúng ta sẽ biết sự thật về bài
thơ đó.
- Suỵt! - Ti-đu nhắc - Im nghe!
Quả vậy, Sác-chi-ê "ngồi vào bàn" như người ta nói trong tiếng lóng của
cảnh sát. Bằng một giọng đơn điệu, đều đều, hắn nhìn vào mũi bàn chân và
bắt đầu.
- Chính tôi đã sáng tác bài Ca ngợi mặt trăng từ lâu lắm.
- Anh?
- Ở bên Đức, hồi còn chiến tranh, ông chú của Gămbađu cũng bị tù như tôi.
Chúng tôi đã làm việc với nhau trong một trại khổ sai. Hỏi đó ông ấy đã lớn
tuổi, còn tôi thì rất trẻ. Chú Gămbađu đã tâm sự với tôi vì thấy tôi tháo vát.
Tôi biết ông ấy giàu. Trước khi ra trận, ông đã giấu một phần tài sản trong
một thửa ruộng. Một hôm ông yêu cầu tôi làm một bài thơ để sau này cháu
của ông dựa vào đấy mà tìm ra tài sản đã giấu... Tôi đã viết bài Ca ngợi mặt
trăng đó, bất kể như thế nào về câu cú không cần có trình độ nghệ thuật
miễn sao những chữ cái đầu tiên của mỗi câu thơ khi xê dịch lên hai nấc
trong thứ tự an-pha-bê ghép liền lại sẽ thành một câu có ý nghĩa và câu đó
là lời dặn dò đối với cháu của ông là Gămbađu.
- Sao câu đó lại bằng tiếng Đức?
- Trong trại chúng tôi học tiếng Đức. Chú của Gămbađu có nói với tôi là
khi ra tù ông sẽ dạy tiếng Đức cho cháu ông.
- Một ý nghĩ thật kỳ cục.
- Ông ấy nghi ngờ tất cả, chỉ trừ có tôi.
- Rồi chuyện sẽ ra sao khi chiến tranh kết thúc?
- Chúng tôi trở về Pháp. Chú của Gămbađu về lại trang trại của ông, còn tôi
thì ở Pa-ri. Tôi nghĩ ngay đến bài thơ Ca ngợi Mặt trăng. Ý định của tôi là
lén đến làng Mô-bơ-rắc cũ. Khi đó chưa có đập nước... Nhưng tôi không có
một đồng dính túi. Ba người bạn tù của tôi rủ tôi đi cướp ở nhà băng Năng-
te-rơ; việc không thành, tôi bị bắt và bị phạt mười năm tù giam... Khi tôi ra
tù thì làng Mô-bơ-rắc cũ đã nằm sâu dưới tám mươi mét nước. Tôi đã mất
hút khối vàng của con người dễ mến đấy.
Sác-chi-ê ngừng lại một lát rồi kể tiếp: