một “đuca” vì trong trận đấu mình đã biểu diễn mấy miếng thoát hiểm đặc
sắc. Vào đây. Mình mời cậu chén bữa tối.
Chẳng đợi bạn trả lời, Gôya đi về phía quán rượu. Giuanitô lưỡng lự, hơi
lắc đầu, rồi cũng bước theo với tiếng thở dài.
Khi họ đẩy cánh cửa đang hé mở, mùi thơm các món xào nấu tỏa ra ngào
ngạt, xộc vào mũi. Một đùi bò đang quay trong lò, những cô hầu bàn, béo
núc ních, đi lại tấp nập với những vò rượu hâm nóng thơm phức,
Franxitxcô đứng lại ở bậc của và nhìn quanh. Gian quán này giống hệt
những quán rượu mà anh đã biết, cũng vì kèo đen xì bồ hóng, bàn gỗ mộc
dài, cũng những vết nứt nẻ trên nền gạch. Lập tức anh cảm thấy không khí
thoải mái quen thuộc.
Quán đầy khách! Anh lơ đãng nhận thấy họ toàn là những người ăn mặc
sang trọng, nhưng anh nghĩ trang phục của anh cũng không có gì đáng xấu
hổ. Cái mũ cài lông chim cũng lịch sự như mũ những người khác và bộ áo
choàng với cái quần chẽn bằng lụa màu xanh nhạt thì chẳng có gì không
hợp thời trang và phong cách những người thanh lịch. Thấy một chiếc bàn
nhỏ ở góc phòng còn trống, anh chỉ cho Giuanitô, lúc ấy vẫn ngập ngừng
đứng ở bậc cửa, và bảo:
– Chúng mình vào kia...
Nhưng trước khi bước vào, anh đã thấy lão chủ quán to béo, đầu hói, vừa
đến chặn trước mặt anh, vừa lau bàn tay vào tạp dề. Franxitxcô chào hắn
bằng một giọng niềm nở.
– A, chào ông chủ quán. Chúng ta muốn thưởng thức món xào ngon
nhất, và thứ rượu cũ nhất của quý quán đây.
Lão chủ quán nhìn anh, không cười:
– Tôi thật phiền lòng, quán không còn chỗ.
– Còn cái bàn nhỏ ở góc kia. - Franxitxcô không hề bối rối, nói với vẻ
khẩn khoản.
– Bàn ấy không phải dành cho các anh.