ngôn mà chẳng đạt tới tí chút nghệ thuật nào. Ôi vậy thì rút cục, văn
chương phục vụ điều gì vậy, có phải con người?
- Em tính thế nào cho thời gian sắp tới? Anh nghe Vợi nói em gái em
đã đi làm. Em nên tìm một công việc khác, có phải sống đến thế là đã hết.
- Còn biết làm gì nữa, em thấy mình không còn muốn động chạm đến
những công việc mệt nhọc. Thân xác em trễ nải và thành ra lười nhác. Em
khổ quá.
Hai tôi nói chuyện thâu đêm. Mỗi lời của cô đều chất chứa khao khát
và những mặc khải buồn. Cô muốn trở lại làm cô gái của ngày xưa, nhưng
con đường trở lại khó quá. Cô chưa có sự chuẩn bị nào cho việc trở lại này.
Tôi nghĩ, nếu cuốn sách của Vợi in đúng như tâm nguyện của cô thì sẽ thế
nào, liệu có thay đổi được chút ít tình hình. Nghĩ là có, biết đâu, đó là sự
động viên cho một nguyên mẫu. Tôi suy xét lại, cũng chẳng nên hiểu một
cách hẹp hòi như vậy. Một cô gái điếm, chắc chắn chẳng vì một cuốn tiểu
thuyết mà thay đổi đi. Nhưng biết đâu, cho cô gái một chút hy vọng, có thể
cứu được một con người...
Sáng sau Vợi đến đón tôi, đi Tuyên Quang để tìm hiểu văn hóa vùng
miền. Trở lại Cao Bằng thì nhận được tin đau xót. Cô gái tên Nguyệt nhảy
sông tự tử, may mắn có người cứu thoát. Tôi và Vợi tái mặt nhìn nhau, tìm
đến căn phòng thuê sâu hút thì được biết cô đã trả phòng và đi. Hỏi, bà chủ
bảo nghe đâu cô ta đi Hải Phòng. Vợi đấm thùm thụp vào ngực mình:
“Chính ta là kẻ gây ra chuyện này”. Tôi đỡ Vợi ngồi xuống, hắn đã loạng
choạng...
Tôi nhận giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Hội tổ chức vào năm sau.
Đó là cái truyện ngắn tôi viết về Nguyệt, thông qua những chi tiết tôi được
nghe kể. Truyện của tôi nói cô tự tử chết. Tư tưởng nghệ thuật và ước vọng
của cô, chính là tôi “vớt” từ dưới sông lên. Tôi vớt những tư tưởng của
người đã chết. Day dứt và đau đớn chảy dài. Truyện ngắn đó là một định