phải nhớ, con có thể bắt chúng làm ngựa để cưỡi, làm chó để đánh, nhưng
không thể coi chúng là người". Bà tự cảm thấy mình thông minh, nhưng tôi
thấy người thông minh cũng có chỗ ngu dốt.Tuy tôi là đứa ngớ ngẩn, nhưng
cũng có chỗ mà người khác không bằng. Vậy là mặt tôi vẫn đầy nước mắt,
tôi bật cười khúc khích.
Tôi nghe thấy người quản gia, bà vú nuôi, cô hầu hỏi, hôm nay cậu làm sao
thế? Tôi không nhìn họ.Tôi nghĩ, mình phải nhắm mắt lại.Thực tế mắt tôi
vẫn mở, tôi kêu lên "Tôi mất mắt rồi!".
Ý tôi nói, tôi không trông thấy gì.
Đôi mắt của con trai nhà Thổ ti sưng đỏ, chỉ một chút ánh sáng thôi cũng
làm nó cảm thấy đau như kim châm.
Lạt ma Môn Ba là người có y thuật nói, mắt tôi đau vì tuyết chói sáng. Ông
sao một cành bách và một ít lá thuốc, xông cho tôi bằng thứ khói cay nồng,
tôi cứ tưởng ông ta đang thay lũ chim hoạ mi trả thù tôi. Lạt ma còn đưa
ảnh Bồ tát được vương đến treo ở đầu giường tôi. Chỉ lát sau, tôi vốn là đứa
to mồm, nằm yên một chỗ.
Tỉnh dậy, Lạt ma Môn Ba lấy cho tôi một bát nước trắng. Ông đóng cửa sổ,
bảo tôi mở mắt nhìn xem trong bát nước có gì không?
Tôi thấy có ánh sáng như sao trên bầu trời đêm. Nhìn kỹ lại, thấy nơi đáy
bát có những hạt như hạt lúa căng tròn. Mầm của hạt lúa mạch đang nhả
những bọt nước long lanh.
Nhìn một lúc, tôi cảm thấy mắt sạch sẽ, mát mẻ.
Lạt ma Môn Ba cúi lạy tạ ơn vị bồ tát được vương, thu xếp dụng cụ, lên
gian thờ đọc kinh cho tôi.
Tôi chợp ngủ một lúc, rồi bị tiếng đập đầu vào cửa làm thức giấc. Mẹ Trạch
Lang đang quỳ trước bà Thổ ti, xin bà tha cho đứa con tội nghiệp của bà.
Mẹ hỏi "Đã thấy chưa?"
"Thưa bà con thấy rồi!".
"Thấy thật chưa?"
"Con thấy thật rồi ạ!".
Nhận được câu trả lời khẳng định, bà Thổ ti nói "Cởi dây trói thả thằng kia
xuống, cho nó hai chục roi". Một người mẹ cảm ơn một người làm mẹ khác