“Họ sống như tu sĩ ấy,” nó nói. “Họ không đi quán bar. Không thăm
thú bạn bè. Họ chỉ đi mua sắm. Xén cỏ. Rửa ô tô.” Rồi nó nhìn tôi.
“Cậu không thấy rất đáng nghi hay sao?”
“Không,” tôi đáp. “Charlie à, nếu họ có một cái lô cốt dưới hầm nhà
mới là đáng nghi. Nếu họ đeo râu giả đi khắp nơi mới là đáng nghi.
Nếu họ đi tới một nhà kho bỏ hoang, mang theo va li chứa một trăm
nghìn bảng mới là đáng nghi.”
Nó bỏ ngoài tai mọi lời tôi nói. “Tớ sẽ phải đột nhập vào một trong
hai ngôi nhà. Có khả năng là nhà cô Pearce. Dễ tiếp cận hơn. Tối thứ
Năm. Cùng lúc với cuộc họp ban giám hiệu. Tớ phải thám thính cho ra
nhẽ.”
“Không,” tôi thốt lên. “Không, không, không, không, không. Cậu
có biết nếu bị bắt sẽ thế nào không? Cảnh sát. Bà hiệu trưởng. Rồi bố
mẹ cậu...”
Đúng là một ý tưởng ngu ngốc, rồ dại, ngang với tự sát. Và thật khó
giải thích tại sao tôi lại quyết định hỗ trợ nó. Tôi đoán là vì rốt cuộc
thì Charlie cũng là bạn nối khố của tôi. Tôi thấy nhớ nó quá. Vả lại tôi
chẳng có gì hay ho hơn để làm. Toàn những lý do vớ vẩn và sẽ không
khi nào được cảnh sát, bà hiệu trưởng hay bố mẹ khoan hồng.
Giờ nhìn lại, tôi mới thấy đó là giây phút bước ngoặt trong cả cuộc
đời tôi.
•••
Tối thứ Năm, chúng tôi nhảy lên xe buýt số 45, dừng ở đường
Canning và chui vào công viên sau vườn nhà cô Pearce. Lẽ ra chúng
tôi nên chui vào đó khi trời đã tối hẳn, nhưng cô Pearce không bao giờ
ra khỏi nhà lúc trời bắt đầu nhá nhem nên chúng tôi chẳng còn sự lựa
chọn nào khác.
Đợi khi đám nhóc rời khỏi mấy chiếc đu, chúng tôi mới tới gần
hàng rào. Đến lúc này một câu hỏi tối quan trọng hiện ra trong đầu tôi.