Bố Charlie nhướn mắt qua đôi kính nhìn tôi. “Nó là câu thành ngữ
thôi Jim. Cứ như tiếng Mán. Xì xà xì xồ. Ngôn với chả ngữ. Không
hiểu mô tê gì.”
“À,” má tôi ửng đỏ.
“Mặc dầu vậy...” chú tiếp lời, thả miếng khoai tây bao tử cuối cùng
vào miệng và nhai khoan khoái. “Coruisk à. Cái từ này nghe quen quá.
Ý bố là, chắc chỉ là trùng hợp thôi, nhưng hình như bố đã mang máng
nghe thấy nó ở đâu rồi. Coruisk, Coruisk, Coruisk... Mà nghĩ ra cái
này thì bố có được thưởng gì không đấy? Một chai whisky? Tem phiếu
mua sách?”
“Vâng, cỡ mấy thứ đó chắc bọn con xoay xở được,” Charlie đáp.
Nhưng cuộc đối thoại bị ngắt quãng bởi chiếc máy nhắn tin của bác
sĩ Brooks. Chú gỡ từ thắt lưng ra cái cục nho nhỏ màu đen rồi xem kỹ.
“Bệnh viện họ gọi rồi. Chả ngơi lưng được phút nào.”
“Gặp bố sau nhé,” Charlie nói.
“Bố sẽ vận dụng hết trí não nghĩ xem cái từ đấy là gì.” Chú mỉm
cười đứng dậy, gỡ áo khoác ra khỏi lưng ghế. “Nhưng bây giờ thì bố
lại phải đi chọc ngoáy mấy cái tử thi đây.”
•••
Trên đường rời nhà Brooks, tôi bị mẹ Charlie ngăn lại và bắt chờ
một phút. Tôi cứ nghĩ mình sắp bị lên lớp về việc phải giúp đỡ cho
thằng con hư đốn của cô đi vào khuôn khổ, nhưng khoảng một phút
sau cô quay lại với một món đồ kim loại bự chảng hình con cá.
“Suýt thì quên,” cô nói. “Cái này là cho bố cháu. Ban nãy ông ấy
gọi điện hỏi mượn cô cái khuôn làm kem cá hồi. Này Jim, cô biết bố
cháu rất đáng tin, nhưng cháu cố đảm bảo cho cô là ông ấy sẽ dùng cái
này để nấu ăn nhé? Cô là cô không muốn ông ấy đè nghiến nó ra mà
hàn thành cái máy bay thả bom Wellington thu nhỏ đâu đấy.”
“Vâng cháu hứa.”