Trong nhà cũng không một tiếng động. Tôi nhìn Becky. Chị ấy cũng
nhìn tôi. Lưỡi con dao bấm loáng lên dưới ánh sao.
Chị ấy gật đầu, miệng ra hiệu không thành tiếng, “Đi.”
Chúng tôi đứng dậy nhón mũi chân ra cửa trước ngôi nhà, rồi nhảy
vào cái lỗ hổng vốn là nơi dành cho cánh cửa.
Bên trong hoàn toàn trống rỗng. Mấy bức tường phản chiếu ánh
trăng. Những tấm đá lát phủ đầy bụi đất. Cỏ dại tràn lan. Một vài bông
hoa dại tí hin. Chẳng có gì bị cháy cả. Mặt đất không bị đốt thành tro.
Cũng chẳng có mảnh xác người nào hóa ra than vụn sất. Chẳng có gì
hết. Giống hệt như lúc chúng tôi đi ngang qua hồi chớm tối.
Dù có chết hay không, thì người đàn ông khi nãy cũng đã biến mất.
Tôi nhìn lên. Hay là luồng sáng xanh đã cho ông ta bốc hơi rồi?
Chuyện gì sẽ xảy đến với chúng tôi nếu nó lại xuất hiện? Liệu chúng
tôi có bốc hơi giống vậy không?
“Becky,” tôi nôn nao, “hay mình chuồn khỏi chỗ này đi.”
Chị ấy bỏ ngoài tai. “Phải có lối ra chứ. Một cánh cửa ẩn. Một căn
hầm bí mật.”
“Becky, em xin chị đấy.” Tôi kéo cánh tay áo chị ấy.
Chị ấy hết lấy giày cào cào lên mặt sàn, lại sờ mó khắp bốn bức
tường, rồi lùng sục đám cây dại khẳng khiu nơi góc nhà.
“Em ra ngoài đây,” tôi nói. “Em không thích ở đây tí nào.”
“Đưa cái vòng đây.”
“Em không nghĩ đó là ý kiến hay đâu.”
“Thế hả?” Becky nói. “Thế thì đi mà nặn óc ra ý kiến nào hay hơn.
Còn giờ thì đưa cái vòng đây.”
Tôi đưa cái vòng cho chị ấy.
Và ngay khi chị ấy gỡ lớp giấy bạc ra, bầu không khí bên trong ngôi
nhà hoang lập tức sáng bừng lên bởi năm mươi đốm sáng xánh lá cây
lộ ra trên bốn bức tường. Một ô sáng hiện ra bên cạnh khung cửa ra
vào.