mà cũng không có nữa. Trong nước, vì thế, mà ai lo phận nấy, không có lời
ganh tị, lời oán thán, hay có nữa cũng chỉ để uất ức trong lòng mà thôi. Xem
vậy mới biết sự tôn-ti có ích cho vua chúa đời xưa là ngần nào ! Thật là một
phương pháp mầu nhiệm, một diệu kế để điều khiển dân chúng, để khiến họ
trở nên một thứ bột dẻo muốn nặn nên hình nào thì nặn.
Kết quả của diệu pháp ấy, nhìn vào lũy tre xanh mới biết nó tốt tươi đến
tột bực. Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư
tưởng tự do, phóng khoáng từ phương tây lại ; đến lũy tre xanh là dừng lại
biến mất, như một ngọn gió mát tan vào trong một bầu không khí nồng nực,
nặng nề.
Vì, lạ thay ! kết quả của diệu kế kia tốt tươi đến bực nào, thì sự ngu
muội, và những tệ nhũng cũng tốt tươi đến bậc ấy. Tục vị thứ hóa ra tục
sùng bái nhân tước một cách u ám đê hèn, và thay vào óc kính thượng là một
căn-tính nô lệ đáng khinh.
Đương lúc tục lệ nơi hương thôn đồi bại như vậy, thì bỗng có phong
trào cải lương hương chính. Người ta mong, đợi một luồng gió mạnh lùa vào
lũy tre, thổi tan những tục lệ vị thứ, khẩu trái trong làng, đem đến cho dân
quê – nhất là đám dân lam lũ trước kia không có chút quyền lợi nào mà chịu
đựng những nghĩa vụ nặng nề – một đời quang đãng hơn.
Nhưng quá mong thường hay thất vọng. Phong trào cải lương chỉ đả
động đến những cơ quan hành chính trong làng và mon man qua những
khoán-ước quá tệ.
Sau cuộc cải lương ấy, chức trách vụ và trách nhiệm của những kẻ ra
lầm việc cho làng thật là rành mạch… trên mặt giấy. Lý trưởng chỉ là kẻ
thừa hành của một hội đồng hương-chính, đại biểu của quyền chủ-tể và quản
lý sự vụ của làng. Hội đồng hương chính ấy là hội đồng tộc biểu : mỗi họ
chiểu đinh số mà bầu tộc biểu là bao nhiêu người, rồi các tộc biểu mới lấy
cách đầu phiếu mà bầu lấy một người làm chánh hội, một người làm phó
hội, một người làm thủ quỹ, một người làm thư ký, còn bao nhiêu tức là hội