Vậy, muốn tìm sự thật, cần phải xét rõ thực tế. Ta cần phải biết hoa lợi
của dân quê mỗi năm được bao nhiêu, và số tiền họ nộp thuế đối với tiền
hoa lợi của họ có quá đáng hay không.
Muốn vậy, ta cần phải xét đến thuế thân và thuế điền thổ.
Thuế thân, ngoài Bắc, mỗi năm mỗi xuất đinh phải đóng 2$50. Nhưng
sự thực, dân quê phải bỏ ra một số tiền lớn hơn, to nhỏ tùy nơi. Số tiền đó
đối với hạng cùng dân – nghĩa là phần đông dân quê – là một mối lo hàng
năm. Họ kiếm lấy đủ sống ngày này sang ngày khác đã là một điều chật vật
lắm rồi, còn lấy đâu ra để đóng thuế nữa. Kết quả : chỉ những người có đủ
tiền nộp thuế thân mới là người được tự do. Còn những người khác thì trở
nên một hạng nô lệ, nô lệ cho những nhà giàu đã bỏ tiền ra nộp thuế cho họ.
Ta nên nhận rằng ngày xưa, dân cũng còn đỡ lo hơn nhiều. Là vì độ ấy,
dân một làng chia ra làm nội tịch và ngoại tịch. Dân nội tịch phải trả 2$50
thì ngoại tịch chỉ phải trả có 0$50 thuế. Cho nên ngoại tịch toàn là hạng dân
nghèo cả. Nhưng sự phân biệt ấy, người ta đã bỏ đi. Các làng thấy lợi cho
đàn anh, hẳn là bằng lòng ; còn nhà nước thì nêu lên cái tư tưởng nhân dân
bình đẳng đối với sưu thuế. Sự bình đẳng ấy là một điều bất công tai hại vô
cùng.
Vì họ bình đẳng đối với thuế, nhưng không bình đẳng đối với hoa lợi
của mỗi người. Đối với dân cùng, ba đồng bạc thuế thân là một số tiền lớn,
lớn quá số hoa lợi hằng năm của họ. Muốn cho họ khỏi thành nô lệ, thì việc
sửa đổi thuế thân là một điều cần thiết. Muốn cho dân quê khỏi ta thán,
tưởng không còn gì cần hơn là dùng một trong hai cách này :
1) bỏ thuế thân, lấy thuế hoa lợi thay vào.
2) chia thuế thân ra làm nhiều hạng, và miễn thuế cho những cùng đinh.
Thuế điền thổ không đến nỗi bất công như thuế thân, nên dân quê
không ta thán bằng. Đổ đồng mỗi mẫu ruộng phải trả 1$40 hay 1$50, nhưng
ít ra dân quê cũng phải trả tới 2$00, vì nhà nước đánh thuế một làng thì kể
gồm cả ruộng nương, nhà cửa ao giếng và cả đường cái quan nữa, mà trả