Godart muốn ngăn cản đi nữa, Đông dương vẫn trở nên một xứ công nghệ
rất thịnh hành phát đạt. Lúc đó điều tối yếu sẽ là làm thế nào cho sự mở
mang công nghệ không thiệt thòi cho dân trong nước, cho những đại tư-bản
ngoại quốc khỏi đến đây bắt nhân dân chịu kham khổ để riêng họ hưởng lợi
một cách ung dung :
Nhưng tương lai ấy còn xa lắm. Hiện giờ, ta hãy chịu khó nhìn thật sự
đã. Thực sự, là dân Việt-Nam phần đông là dân quê, mà dân quê hầu hết làm
không đủ ăn.
Công việc làm ruộng của họ, có vất vả thật nhưng chỉ có từng mùa
trong một năm. Những lúc cầy cấy xong, họ còn nhiều thì giờ rỗi rãi, họ
không biết dùng làm gì. Nghỉ ngơi, kể cũng cần cho họ thật, nhưng đồ dùng,
quần áo, nhiều thứ khác cần cho họ hơn. Muốn dùng những buổi nghỉ bắt
buộc của họ, để cho họ, tuy bận hơn một chút, nhưng được sung túc hơn
nhiều, ai cũng nghĩ đến tiểu kỹ-nghệ và kỹ-nghệ gia đình.
Mở mang những kỹ-nghệ nhỏ – đó là một điều cần phải làm – như
chúng tôi thường thường nói đến. Muốn rõ sự xác đáng của ý tưởng đó, ta
chỉ cần quan sát chung quanh ta và so sánh.
Một làng như làng Cổ Am, ở giữa cánh đồng chua nước mặn, tình thế
đáng lẽ cũng không khác những làng lân cận. Vậy mà người làng Cổ sung
túc hơn, có tiếng là giàu có hơn. Không có gì lạ : làng Cổ Am, ngoài việc
nông còn có một kỹ nghệ nhỏ, là kỹ nghệ dệt vải. Tỉnh Hà-đông đối với
những tỉnh khác, là một tỉnh phong phú hơn, cũng không qua cái cớ kia : kỹ
nghệ ở đây mở mang phát đạt hơn mọi nơi. Nào nghề làm ren, nào nghề dệt
gấm, nào nghề dệt lụa, nào nghề làm giấy, bao nhiều kỹ nghệ nhỏ có thể
đem lại cho nông dân một đời sung túc hơn, dân tỉnh Hà-đông đều chịu khó
dúng tay vào.
Trái lại, những làng chỉ trông vào nghề làm ruộng dần dần trở nèn
nghèo xơ xác, không có lấy đủ tiền đóng góp, không có lấy đủ cơm ăn nữa.
Nhân dân những làng ấy hóa ra cơ cực, suốt đời làm tôi mọi cho bọn nhà
giàu ở làng lân cận chỉ biết cho vay thật nặng lãi.