So sánh số phận của những làng ấy với những làng trên, tự nhiên ta
thấy rõ con đường cần phải theo trong công cuộc nâng cao trình độ dân quê :
mở mang tiểu kỹ nghệ là một công cuộc cần có.
Muốn đạt được mục đích ấy, trước hết phải xét xem ở nước ta, những
tiểu kỹ nghệ hiện có là những kỹ nghệ nào, rồi chọn xem kỹ nghệ ấy, những
kỹ nghệ nào có thể đem đến những làng chỉ biết có việc nông, dạy cho dân
biết mà làm. Còn ở nhưng nơi đã sẵn có tiểu kỹ nghệ hay kỹ nghệ gia-đình,
lại cần phải tìm phương pháp mở mang những kỹ nghệ ấy.
Muốn có phương pháp nhiệm mầu để mở mang kỹ nghệ, không có gì
hơn là xét xem nghệ phẩm của ta hơn người ở chỗ nào mà không phát đạt vì
lẽ gì. Ai nấy đều công nhận rằng nhân công ở nước ta rất khéo tay và rất
chịu khó ; đó là hai đức tính rất tốt có thể khiến người ngoại quốc yêu
chuộng đồ hàng của ta.
Vậy mà sự thực không được thế.
Những hóa vật ta đem cạnh tranh với người vẫn bị coi rẻ : cả đến
những hóa vật chỉ riêng ta có cũng không được người chuộng một cách đằm
thắm nữa. Thí dụ như : những đồ hàng thêu hay hàng khảm sà cừ.
Nguyên nhân sự ghẻ lạnh đó, nếu ta nghĩ kỹ ta sẽ thấy ở sự tổ chức
vụng về. Người ta thường bảo ta thiếu óc sáng kiến nữa ; trước kia chỉ biết
theo nguời Tàu, còn bây giờ lại chỉ biết bắt chước người Pháp mà thôi.
Nhưng đó chỉ là vì những người thợ của ta thiếu học, không có ai chỉ bảo
cho những điều nên theo.
Bây giờ muốn cho hàng của ta bán được, nghĩa là muốn cho kỹ nghệ
nhỏ và kỹ nghệ gia đình của nông dân được mở mang, ta cần phải tổ chức
nên thành đoàn, phường, thành hội. Những người cùng một nghề sẽ cùng
phải theo một quy củ, một phương châm. Những điều tệ hại của sự cạnh
tranh nhỏ nhen sẽ mất hết. Hội sẽ có thể định giá được, và sẽ có đủ cách để
dùng những nhân tài ở trường Mỹ-thuật Đông-dương : về phương diện mỹ-
thuật, các đồ hàng của ta cũng nhờ đó mà có giá trị hơn. Cùng một lúc ta sẽ
thấy mất một điều tệ hại thường thấy : đồ hàng đặt không đúng với mẫu.