BẢY
Sáng ngày thứ bảy 13 tháng 3 năm 1953, tại vùng đồi núi Đà Lạt, trời
vừa hửng sáng. Các đồi thông rải rác khắp vùng cao nguyên Lang Biang
vẫn còn chìm mình trong sương mù. Cả một vùng trời không có một cơn
gió nhẹ. Chung quanh đây, tất cả vẫn còn yên bề vắng lặng. Chim chóc vẫn
chưa thức dậy chào đón bình minh. Từ hướng Đông, mặt trời càng lúc càng
tỏ rạng. Bầu trời trong như ngọc được phủ lên một giải nắng vàng làm nổi
bật các đỉnh đồi thẫm màu trên một vùng nắng chói chang, trông không
khác gì một bức tranh thủy mạc của Trung Hoa thường thấy trên các bức
họa được vẽ trên nền lụa xám.
Bên bờ hồ, Joseph đưa mắt nhìn vẻ quyến rũ của các ngọn đồi chung
quanh mình, cạnh đó Lan vừa bước đi song song với anh, vừa cất tiếng hát
nho nhỏ. Giọng nàng thật buồn thảm ai oán qua lời ca của bài Les feuilles
sont mortes, và chính giữa cái giây phút tuyệt vời bất ngờ này đã khiến cho
Joseph không biết mình đang sống trong mơ hay đang sống thực.
Bên dưới những rặng thông ướt sũng sương mai, hai người có vẻ là
hai người duy nhứt còn lại trên thế gian này, những chiếc thuyền bườm nho
nhỏ, ngộ nghĩnh với các cánh bườm bằng nhiều màu sắc rực rỡ mà du
khách thường đến đây khuấy động mặt hồ khi ngày bắt đầu, giờ này vẫn
chưa thấy xuất hiện. Các đồi thông vẫn chưa có bóng người. Đó đây, bên
dưới các bóng mát, một vài khóm lan vàng hoặc trắng tinh đập vào mắt
Joseph. Mấy lần rồi anh định lên tiếng, nhưng anh lại kềm hãm lòng mình,
vì không muốn làm khuấy động vẻ đẹp của buổi sáng mà Lan đang mời anh
đi dạo với nàng.
Nghe tiếng hát của Lan, Joseph dễ dàng hình dung được cảnh nàng
tung tăng với bạn bè ngày còn học ở Couvent des Oiseaux. Cả một bầy con