địch, không để cho chúng có một giờ phút nào yên, làm cho chúng
lâm vào tình thế không thể nào chịu nổi, buộc chúng phải rời bỏ
những nơi chúng đã chiếm. Có thể hy vọng rằng quân Pháp mỏi
mệt vì những cuộc tiến công không ngừng của quân Việt Nam, sẽ
nghĩ đến việc rút lui và không còn nuôi hy vọng chiếm đóng Việt
Nam vĩnh viễn.
Rủi thay, những lời công bố đẹp đẽ, những phần thưởng cao quý
nhất xen lẫn những lời chê trách, hoặc trừng phạt nặng nề ấy,
nhất là khi nó thốt ra từ miệng một ông vua không bao giờ rời khỏi
cung điện của mình, ẩn náu giữa bốn bức tường của một thành trì
kiên cố, xa dân chúng, thì quả là không đủ sức mạnh để mang trở lại
cho quân Việt Nam những vũ khí họ không còn nữa và niềm tin họ
đang mất đi.
Dần dần, người ta càng ngày càng mong muốn hòa bình, kể cả
những hàng quan lại yêu nước.
KÝ KẾT HIỆP ƯỚC SÀI GÒN (1862)
“… Tôi không giấu giếm rằng những thắng lợi mà tôi mong
ướ
c đạt được, sau khi đã nhiều lần trải qua thử thách như một
quân nhân, trước hết là thắng lợi hòa bình, bởi vì chiến
tranh tuy cần, tuy không thể thiếu được trong một số trường
hợp, vẫn gây đổ vỡ, điêu tàn. Chỉ duy nhất hòa bình mới có thể
xây dựng lên được một cái gì vững bền và tích cực. Những tờ
thông báo hòa bình không được vẻ vang cho bằng, nhất là ở
Pháp; nhưng dù có phải chịu mang tiếng là kẻ phản bội đi nữa,
tôi tuyên bố sẽ rất hài lòng được đặt dưới chân Hoàng thượng
một bản thông báo xinh xinh về một đất nước đã được khôi
phục hòa bình, đã được ổn định tổ chức và đang trên đường