một khía cạnh thống nhất trong hệ thống siêu hình học và tôn
giáo của họ: trên cơ sở đó mà đảm bảo tinh thần tôn trọng quyền
lực, nhưng đồng thời vấn đề bảo vệ nhân dân cũng được đảm bảo
cho mọi người, thông qua những hình phạt nặng nề đối với những
nhà chức trách thoái hóa, không làm tròn trách nhiệm.
Uy tín nhà vua dựa trên cơ sở một tín điều: tính chất thần
thánh của họ, đó là tín điều trung tâm của triết học tôn giáo Việt
Nam mà đặc điểm nổi bật là chủ nghĩa chiết trung cực đoan. Lịch sử
hay đúng hơn là một đường lối chính trị - chứ không phải ngẫu
nhiên hoặc một ý thức tập thể nào của nhân dân - đã tạo nên cái thứ lý
thuyết hỗn hợp mà người ta có thể gọi là “Tôn giáo cổ truyền” Việt
Nam đó. Với sự thiết lập triều đại nhà Lê ở thế kỷ XV, đồng thời
với sự củng cố chế độ trung ương tập quyền về chính trị và hành
chánh, nền quân chủ đã nâng Khổng giáo lên thành quốc giáo và
bắt phụ thuộc vào nó vô số những dòng tôn giáo khác đang hội tụ
trên nước này, kể cả Đạo giáo và Phật giáo.
Đạo “thờ vua” gắn chặt với đạo “thờ Trời”; cũng như ở Trung
Quốc cổ điển, nó là một bộ phận chủ chốt của cái hỗn hợp tôn giáo
mà thực chất là một bộ máy chính trị nào đó. Bởi vì chính quyền và
thần quyền gắn liền với nhau: nhà vua - “con Trời” - nắm giữ
mọi quyền bính bởi vì Vua có sứ mệnh phải giữ gìn kỷ cương xã hội.
Thực ra, đây là một phương diện của trật tự vũ trụ do có một sự tương
ứ
ng không thể nào sai được thừa nhận như là chân lý cơ bản, giữa
thế giới tinh thần và thế giới vật chất. Vua - được Trời thừa nhận
và giao phó cho một “sứ mệnh” thần bí - hoàn thành sứ mệnh ấy
thông qua duy nhất sự có mặt của vua trên ngai vàng.
Người Việt Nam thừa nhận trên Vua chỉ có Ngọc hoàng Thượng
đế, “Trời chí tôn” và các vị Tiên đế đã chết, là tổ tiên nhà Vua,
bất cứ thế lực siêu nhiên nào khác dù là những vong linh bảo vệ các
gia đình hay thành hoàng các làng xã, đều dưới quyền của vị quân