vương đương trị và ngồi theo vị trí trong hệ thống thứ bậc của một
cơ quan hành chánh thiêng liêng. Là “con người duy nhất, thần
linh dòng họ mình” - Vua là nhân vật duy nhất trong những người
sống được hưởng quyền làm chủ tế trời đất và cúng tế các tiên
vương, những lời chúc tụng có khả năng củng cố thêm cho Vua khả
năng giữ gìn trật tự, đạo lý và phồn vinh.
Tôn giáo bảo đảm sự hòa hợp của quốc gia, bằng cách thắt chặt
những nhóm chính trị và xã hội cơ bản trong những mối quan hệ
thống nhất chặt chẽ về đạo lý và tinh thần. Là quốc giáo, nhưng
nó không mang vẻ lạnh lùng của những tín ngưỡng “nhà nước”: nó
sống và sức sống ấy có được không phải nhờ dựa vào chính
quyền, mà nhờ sự hòa nhập nhất trí của cả dân tộc vào lòng tin của
nhân dân. Người ta thường ca ngợi tính hiệu quả của các thể chế
ngày xưa của Việt Nam, sự hài hòa trong cơ cấu, tính vĩnh cữu của
các thể chế đó. Người ta không lưu ý đúng mức đến sức mạnh ấy,
tức cái uy tín có tính chất tôn giáo gắn liền với sức mạnh đó và
bắt buộc mọi người tuân thủ không một chút phàn nàn. Vua - hoàng
đế - là cái sườn nhà của cộng đồng dân tộc; nhưng không có cái
“tôn giáo vương quyền” ấy thì Vua, hay Hoàng đế cũng chẳng là
gì.
Tuy nhiên, sự hỗ trợ của phương diện tinh thần mà chế độ quân
chủ có thể hoàn toàn dựa vào cũng không gây ảo tưởng được. Nhà
vua, vừa là quốc vương vừa là thần, về lý thuyết có quyền hành
vô tận. Thực tình, nhà vua phải nêu gương tuân thủ pháp luật và kỷ
cương xã hội, nếu không thì dân chúng có quyền, nói đúng hơn là
có nhiệm vụ nổi dậy và tước “mệnh Trời” của nhà vua.
Như vậy, bằng một con đường vòng tinh vi, triết lý Khổng -
Mạnh thực tế đã đặt chủ quyền tối cao vào tay nhân dân. Vị “con
Trời” (Thiên tử) chỉ chịu trách nhiệm trước Trời: điều đó đã rõ.
Nhưng kinhsách thánh hiền tuyên bố: “Đấng chí tôn” không có