Con ngồi trong căn phòng của mình tại McGill suốt buổi
chiều hoom đó, đọc sách và đi tới đi lui – chủ yếu là bước tới
bước lui – thế nhưng Christina không quay lại, và con không đi
tìm nàng cho đến khi trời tối. Con lén lần tới nhà nàng, trong
suốt quãng thời gian đó, cố gắng tự thuyết phục mình bằng một
lời giải thích giản đơn nào đó cho việc tại sao nàng chưa quay
trở lại.
Khi con tới con đường nhà nàng, con thấy ánh đèn duy nhất
sáng trong phòng ngủ của nàng, do đó con nghĩ chắc là nàng
đang ở nhà một mình. Con bước qua cánh cổng đi lên hàng hiên
trước nhà, gõ cửa và chờ đợi.
Bố cô ấy ra mở cửa.
“Anh muốn gì?” ông ta hỏi, đôi mắt của ông không rời con, dù
chỉ trong chốc lát.
“Cháu yêu con gái bác,” con nói với ông ta, “và cháu muốn
cưới cô ấy làm vợ”.
“Con bé sẽ không bao giờ lấy một người Do Thái làm chồng,”
ông ta nói một cách đơn giản và đóng cửa lại. Con nhớ ông ta
không sập cửa; ông ta chỉ đóng nó lại, điều này dường như làm
cho sự việc, thậm chí càng thêm tệ hại.
Con đứng bên ngoài, dưới đường, mắt nhìn đăm đắm lên căn
phòng của nàng hơn một tiếng đồng hồ, cho đến lúc ánh đèn tắt
đi. Con lê bước về nhà. Con mường tượng đêm đó có một trận
mưa phùn nhẹ và có rất ít người ngoài đường phố. Con cố gắng
suy nghĩ xem con nên làm việc gì lúc đó, mặc dù tình huống của
con xem ra có vẻ tuyệt vọng. Đêm hôm đó đi ngủ, con hy vọng
vào một phép màu nhiệm. Con đã quên mất là những phép màu
nhiệm là để dành cho những người Thiên chúa giáo, chứ không
phải cho người Do Thái.
Đến sáng hôm sau con đã nghĩ ra một kế hoạch. Con gọi điện
đến nhà Christina lúc tám giờ và suýt nữa dập ông nói xuống
khi nghe thấy giọng nói ở đầu dây bên kia.