vậy - nhằm sắp xếp chuyến bay và khách sạn, một nhiệm vụ càng phức tạp
hơn do bệnh trạng của Rhyme.
Nhưng không phức tạp như họ tưởng.
Tất nhiên có một số vấn đề phải đối phó khi đi xa trong tình trạng liệt tứ
chi - nào xe lăn đặc chủng rước vào tận chỗ ngồi, nào gối đặc biệt, nào phải
lo việc cất trữ chiếc xe lăn Storm Arrow, nào những vấn đề thực dụng bao
gồm việc đi nặng đi nhẹ có thể phải đối phó trên chuyến bay.
Dẫu vậy, chuyến đi rốt cuộc cũng không tệ. Tất cả chúng ta đều tật
nguyền dưới mắt Cục An ninh Vận chuyển, đều bất động, đều là món đồ,
đều là mớ hành lý bị lục lọi tùy hứng. Lincoln thật ra cảm thấy mình còn đỡ
hơn phần lớn các du khách đồng hương, những người đã quen di chuyển và
tự lập.
Bên ngoài khu vực lấy hành lý, tại tầng trệt sân bay, Rhyme di chuyển
đến chỗ rẽ đường đầy ắp du khách và dân địa phương đang lăng xăng đón
nào xe, nào taxi, nào xe gia đình bảy chỗ. Anh nhìn một vườn cây nhỏ
nhắn, một vài giống cây trong đó anh chưa thấy bao giờ. Anh không có
hứng thú với trồng trọt vì mục đích thẩm mỹ mà chỉ thấy cây cỏ rất hữu ích
đối với công tác khám hiện trường.
Anh cũng nghe nói rượu rum ở Bahamas đặc biệt ngon.
Trở lại nơi Thom đang đứng và nghe điện thoại, Rhyme gọi cho Sachs để
lại lời nhắn. “Đến nơi an toàn. Anh…” Anh quay ngoắt lại vì một tiếng rít
như mèo gào sau lưng. “Trời đất, làm anh sợ hết hồn. Có một con vẹt ở đây.
Nó nói chuyện kìa!”
Cái lồng được một ủy ban du khách địa phương đặt ở đó. Bên trong là
một con vẹt Bahamas vùng Abaco, theo nội dung tấm biển. Con chim ồn ào
này, lông xám với cái đuôi xanh lá nổi bật, đang lảnh lót, “Hê-lô! Xin chào!
Hola!” Rhyme ghi âm lại một đoạn chào cho Sachs nghe.
Lại một hơi thở đầy không khí mặn, ẩm, đượm chút mùi chua, cái mà
anh nhận ra là khói. Cái gì đang cháy vậy? Chẳng ai có vẻ gì là hốt hoảng
cả.
“Lấy được hành lý rồi,” một giọng nói cất lên phía sau lưng họ.