lại bất kỳ vỏ đạn nào, dân nhà nghề luôn luôn nhặt lại vỏ đạn bởi vì chúng
chứa cả kho tàng thông tin về hung khí và tay súng. Dẫu vậy, anh nhòm
xuống lòng nước, tự hỏi liệu một vỏ đạn có bị văng xuống đấy không. Biển
đen ngòm và anh chắc là nó khá sâu.
“Có thợ lặn thì tốt quá.”
“Thợ lặn chính thức của chúng tôi thì không có rồi, thưa đại úy,” Poitier
nói một cách đầy tiếc nuối. “Dĩ nhiên đây có phải cuộc điều tra chính thức
đâu.”
“Chẳng qua là một chuyến tham quan đảo thôi.”
“Phải, chính xác là vậy.”
Rhyme lăn xe đến gần mé và nhìn xuống.
“Cẩn thận đấy,” Thom hô lên.
“Nhưng mà,” Poitier nói, “tôi biết lặn đấy. Hay là bữa nào tôi quay lại
xem thử có gì dưới đấy không. Tôi phải đi mượn vài chiếc đèn soi dưới
nước từ cái đồn cạnh biển của chúng tôi.”
“Cậu làm thật hả, đồng chí hạ sĩ?”
Cậu ta cũng nhòm xuống mặt nước. “Phải. Ngày mai, tôi…”
Chuyện xảy ra tiếp theo ập đến thật nhanh.
Nhanh như cắt.
Nghe tiếng nhíp ô tô loảng xoảng và tiếng động cơ nổ ọc ạch, kêu xì xì,
Rhyme, Thom cùng Poitier ngoái lại nhìn con đường đất mà vừa nãy họ lái
trên đó. Họ thấy cái xe Mercury vàng óng phóng thẳng về phía mình, lần
này chỉ có hai tên trong xe.
Rồi Rhyme hiểu ra. Anh liếc ra sau, thấy gã mặc áo thun xám, chính là
kẻ xả rác từ chiếc xe bán tải, băng nhanh qua con đường hẹp rồi giằng co
với Poitier khi cậu đang rút súng. Khẩu súng văng ra. Kẻ tấn công đứng
phắt dậy rồi đá vào bên hông và đầu cậu hạ sĩ đang thở hổn hển, mạnh.
“Không!” Rhyme la lên.
Chiếc Mercury phanh rít lại và hai tên trong số những kẻ trước đó bám
đuôi họ nhảy ra ngoài - một gã tóc tết lọn dài mặc áo ba lỗ vàng và tên
đồng bọn, lùn hơn, mặc áo thun xanh lá. Tên mặc áo xanh lá giật điện thoại
ra khỏi tay Thom rồi lên gối khiến cậu ôm bụng.