đình, ruồi, một chậu phong lữ to và những chiếc dương cầm tồi tàn. Trong
phòng khách có ba chiếc đi văng, ba cái bàn, hai tấm gương và chiếc đồng
hồ rè rè, mặt tráng men đã sạm đen, kim bằng đồng đen có chạm trổ. Trong
phòng làm việc có cái bàn chất đầy giấy tờ, những tấm bình phong màu
xanh nhạt dán những bức tranh cắt từ những cuốn sách của thế kỷ trước, hai
cái tủ đựng những cuốn sách hôi xì, đầy mạng nhện và bụi đen, một chiếc
ghế bành cồng kềnh, chiếc cửa sổ kiểu Ý và cái cửa lớn ăn ra vườn, nhưng
đóng kín mít. Tóm lại, mọi cái đều bình thường. Marđari Apônlônưts có rất
nhiều kẻ hầu người hạ, và tất cả đều mặc theo lối cổ: áo kafơtan dài màu
xanh có cổ cao, quần dài không rõ là màu gì, gilê ngắn màu vàng nhạt. Nói
với khách, họ "thưa cha" chứ không gọi khách là "ông". Công việc làm ăn
của ông ta do một burmixtr xuất thân từ nông dân quản lý, còn việc nhà thì
giao cho một bà già đầu chít khăn nâu, mặt nhăn nheo và tính tình keo bẩn.
Ở chuồng ngựa của Marđari Apônlônưts có ba mươi con ngựa các cỡ khác
nhau. Khi đi đâu, ông ta dùng chiếc xe ngựa do thợ nhà đóng lấy, nặng tới
một trăm năm mươi put. Khách khứa được ông ta tiếp rất niềm nở và thết
đãi chu đáo, nghĩa là: do tính chất làm mê người của bếp ăn Nga, ông ta
khiến họ mất hết khả năng làm bất cứ việc gì, trừ việc chơi bài cho đến tối.
Bản thân ông ta cũng chẳng bao giờ làm bất cứ việc gì và thậm chí không
đọc cả "Người đoán mộng"(
[87]
). Nhưng ở nước Nga chúng ta còn khá
nhiều địa chủ như vậy. Thế thì xin hỏi: vì cớ gì tôi nói đến ông ta và nói để
làm gì? Thay cho câu trả lời, xin cho phép tôi, kể với các bạn một trong
những lần tôi đến chơi Marđari Apônlônưts.
Tôi đến thăm ông ta vào mùa hè, lúc bẩy giờ tối. Buổi cầu kinh tối vừa
xong, và viên giáo sĩ trẻ tuổi, nom rất rụt rè, có lẽ mới rời ghế trường dòng,
ngồi trong phòng khách cạnh cửa, ngay ở rìa chiếc ghế dài. Như thường lệ,
Marđari Apônlônưts tiếp tôi hết sức ân cần: ông ta vui sướng thực sự với
từng vị khách, nói chung ông ta là người hết sức tốt. Giáo sĩ đứng lên và
cầm lấy mũ.
- Khoan đã, khoan đã, thưa cha... - Marđarit Apônlônưts nói, nhưng vẫn
không buông tay tôi - Tôi đã bảo đem vôtka đến cho cha.