sự phát hiện vĩ đại có tính phê phán ấy chung qua chỉ là một sự lắp lại những từ đồng nghĩa
mà thôi. Theo ý kiến của sự phê phán thì tinh thần, từ trước đến nay, bao giờ cũng vấp phải
một vật cản trở, một chướng ngại, - nói cách khác, bao giờ nó cũng có một đối thủ. Vì sao
vậy? Vì nó có đối thủ. Thế ai là đối thủ của tinh thần? Sự trống rỗng về tinh thần. Sự phê
phán vẫn định nghĩa quần chúng chỉ là "mặt đối lập" của tinh thần, là sự trống rỗng về tinh
thần, mà nếu lấy những định nghĩa chi tiết hơn nữa về sự trống rỗng của tinh thần thì đó là
"sự lười biếng về tư tưởng", "sự hời hợt", "sự tự mãn". So với các tác giả cộng sản thì thật là
ưu việt hơn biết bao: tránh khỏi phải
nghiên cứu nguồn gốc và sự trống rỗng về tinh thần, của sự lười biếng về tư tưởng, của sự
hời hợt và sự tự mãn, và sau khi tìm thấy mặt đối lập của tinh thần, của tiến bộ ở trong các
phẩm chất ấy rồi thì xoay ra làm nhục các phẩm chất ấy về đạo đức! Khi các phẩm chất ấy là
những thuộc tính của q u ầ n c h ú n g, coi như một chủ thể nào đó, một chủ thể còn có chỗ
khác với các phẩm chất ấy, thì sự phân biệt như thế chẳng qua chỉ là bề ngoài "có tính phê
phán" của sự phân biệt mà thôi. Chỉ có một điều này mới là một cái bề ngoài, tức là ngoài
những thuộc tính trừu tượng như sự trống rỗng về tinh thần, sự lười biếng về tư tưởng, v.v.,
ra, sự phê phán tuyệt đối còn sử dụng một chủ thể cụ thể nhất định nào đó, vì theo quan niệm
phê phán thì "quần chúng" chẳng qua chỉ là các thuộc tính trừu tượng ấy: "quần chúng" chỉ
là một tên gọi khác của các thuộc tính ấy, chỉ là sự phân cách hoá hư ảo của các thuộc tính
ấy.
Nhưng quan hệ giữa "tinh thần và quần chúng" còn có một hàm nghĩa khác ẩn kín nó sẽ
bộc lộ hoàn toàn trong tiến trình lập luận sau này. Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc qua thôi. Quan
hệ của "tinh thần" và "quần chúng", mà ngài Bru-nô phát hiện, thật ra chẳng qua chỉ là sự
hoàn thành có tính phê phán và biếm hoạ của quan điểm Hê-ghen và lịch sử, mà quan điểm
này lại chẳng qua chỉ là biểu hiện tư biện của giáo điều Cơ Đốc giáo Đức về sự đối lập của
tinh thần và vật chất, thượng đế và thế giới. Trong phạm vi lịch sử, trong phạm vi bản thân
nhân loại, sự đối lập ấy biểu hiện ra như sau: một số ít cá nhân được lựa chọn, coi như tinh
thần tích cực, đối lập với phần còn lại của nhân loại coi như quần chúng không có tinh thần,
như vật chất.
Quan điểm của Hê-ghen và lịch sử đòi hỏi một tiền đề là phải có một tinh thần trừu tượng,
hay tuyệt đối, phát triển theo kiểu này: loại người chỉ là quần chúng, tức là người mang tinh
thần đó một cách tự giác hoặc không tự giác. Vì vậy, bên trong lịch sử có tính chất kinh
nghiệm, rõ ràng, Hê-ghen đã bày đặt nên một
lịch sử có tính tư biện, huyền ảo. Lịch sử của nhân loại biến thành lịch sử của tinh thần trừu
tượng, và do đó đối với con người hiện thực thì nó biến thành lịch sử của tinh thần ở thế giới
bên kia của loài người.
Song song với học thuyết đó của Hê-ghen, ở Pháp đã phát triển học thuyết của phái không
luận
35
, là phái đề xướng sự độc lập tự chủ của lý trí đôi lập với sự độc lập tự chủ của nhân
dân để dễ bề gạt quần chúng đi mà thống trị một mình. Đấy thật là hết sức triệt để. Nếu hoạt