nét văn hoá tương đồng với nước ta, vậy mà trong suốt khoảng thời gian hai năm
– từ 1966 đến 1968 – trong công việc nghiên cứu về văn chương nhi đồng quốc
tế, phải tìm đọc tài liệu ca dao, truyện cổ tích quốc tế tại nhiều thư viện lớn Hoa
Kỳ, kể cả Library of Congress tại Hoa-Thịnh-Đốn, soạn giả nhận thấy rằng hình
ảnh con cò được nhân cách hoá một cách gần gũi, thân-mật nhường kia quả là
một sự kiện độc đáo của riêng ca dao Việt-Nam, khi thì tượng trưng người mẹ
quê, khi là cô gái quê, khi là em bé quê, khi thì chỉ dùng làm một hình ảnh khởi
hứng…
Chính vì tính cách vừa trong sáng vừa ngộ-nghĩnh của hình ảnh đó mà tất cả
những bài ca dao nói tới con cò, hoặc một vài loài điểu tương tự đều được soạn
giả xếp thành một đề mục riêng của ca dao nhi đồng Việt-Nam.
Sau con cò, trong những bài ca dao nhi đồng Việt-Nam, nhiều lần ta còn bắt
gặp hình ảnh một loài cá nhỏ cũng được nhân cách hoá, đó là cá bống. Tục ngữ
có câu : « Bống có gan bống ». Truyện cổ tích Tấm Cám của ta cũng có bóng
dáng cá bống xuất hiện : « Tấm nghe lời bụt mang con cá bống còn sót ở giỏ về
thả xuống giếng nhà, ngày ngày hai bữa bớt phần cơm của mình mang ra giếng
gọi bống lên ăn. Gọi rằng :
« Bống ơi bống !
Bống lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Đừng ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người… »
Và ca dao nhi đồng có những bài : « Cái bống là cái bống bang », « Cái
bống là cái bống binh », v.v…
Soạn giả có ý nghĩ cho rằng « cái bống » sở dĩ được nhân cách hoá trong
một số bài không phải vì hình ảnh « cái bống » cũng gần-gũi quen thuộc với
người dân quê như hình ảnh « cái cò bay bổng bay la », mà vì âm thanh của « cái
bống » gần-gũi âm thanh tiếng ru hời… Các bà mẹ Việt khi ôm con vỗ-về tìm câu
hát ru thường vẫn khởi sự bằng tiếng ru hời : « ạ ơi à ời » hay « bồng bống bông
bang… ».
Có thể thoạt chỉ là :
Ạ ơi à ời…
Bồng bồng mà nấu canh khoai,
Ăn cho mát ruột đến mai lại bồng.