kích, bèn gả con gái cho anh ấy, A Thác liền biến thành chàng rể châu Phi
rồi.” Chắc hẳn tôi cười trông rất ngốc.
“Tư Huỳnh, cậu đúng là càng nói càng xa rồi đấy.” Bách Giai thở dài.
Tôi chăm chú nhìn Bách Giai hàng lông mày của cậu ấy khẽ nhíu lại.
“Tớ thật rất ngưỡng mộ cậu.” Trán Bách Giai chạm vào chóp mũi tôi.
“Mặc dù A Thác sẽ rời khỏi Đài Loan, nhưng…” Tôi còn chưa nói hết lời,
Bách Giai đã lắc đầu.
“Ý tớ là, tớ rất ngưỡng mộ cậu, lúc nào cậu cũng có thể nói về A Thác bằng
giọng điệu vui vẻ như vậy.” Bách Giai nhắm mắt lại, ngón tay chạm vào
miệng tôi, không để tôi nói tiếp.
Tôi nhìn cậu ấy, khóe miệng Bách Giai nở một nụ cười.
“Mỗi lần thấy A Thác trong tiểu thuyết của cậu, anh ấy đều sống động như
thế, còn trong ký ức của tớ, lại chỉ có mỗi bức tranh ghép mãi không bao
giờ hoàn thành kia, cùng với con Cà Rốt nằm ngủ trong lòng. Có điều, tớ
hạnh phúc lắm, ánh đèn màu vàng đậm trong căn phòng ấy là màu sắc tớ
thích nhất, vẻ mặt anh ấy nghiêm túc hỏi tớ “Miếng ghép này để ở đây liệu
có khiên cưỡng quá không” là ký ức tớ khó quên nhất, khi anh ấy lái xe đèo
tớ về, bao giờ cũng chú ý đến tớ, mỗi lần đều cởi bớt một cái áo. Anh ấy
bảo người ngốc sẽ không bị cảm, anh ấy bảo cánh tay cầm pháo thăng thiên
đừng có run, phải chĩa lên theo góc bốn mươi lăm độ thì mới bắn vừa cao
vừa xa, anh ấy bảo niệm lực của loài người rất mạnh…” Bách Giai vẫn
nhắm mắt, càng nói càng nhỏ dần.
Cậu ấy cười rất hạnh phúc, như thể đã ngủ say vậy.
Tôi khẽ ôm lấy Bách Giai, giúp cậu ấy đắp cái chăn mùa hè.