CÁC CUỘC CHIẾN TRANH TIỀN TỆ - Trang 157

trưởng trong năm 2010, nhưng nguyên nhân chính của sự tăng trưởng này là
sự phát triển tại các thị trường mới nổi và nhu cầu đối với các sản phẩm
công nghệ cao của Hoa Kỳ, chứ không phải là những thay đổi trong tỷ giá
hối đoái. Trung Quốc đã để cho giá Nhân dân tệ nhích cao hơn một chút –
chủ yếu nhằm giảm nhẹ sự quy kết là một kẻ thao túng tiền tệ từ Bộ Ngân
khố Hoa Kỳ và theo đó có thể khiến Quốc hội Mỹ trừng phạt thương mại.
Nhưng sự tăng giá tiền tệ này chưa thể đáp ứng các yêu cầu của Geithner.
Thậm chí một Hội nghị thượng đỉnh song phương được tổ chức trong tháng
1/2011 giữa Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Obama (được gọi là hội
nghị G2) cũng chẳng mang lại kết quả gì nhiều hơn những lời nhận định
thân ái giữa đôi bên và mấy tấm ảnh chụp họ đang tươi cười. Có vẻ như nếu
Hoa Kỳ muốn giảm giá đồng đô-la thì Hoa Kỳ phải tự mình hành động. Việc
thế giới cứ trông cậy vào nhóm G20, cho đến lúc này, vẫn tỏ ra vô vọng.

Tuy nhiên, tới tháng 6/2011 Hoa Kỳ trỗi dậy như một người chiến thắng

trong cuộc chiến tranh tiền tệ. Giống như những kẻ chiến thắng trong các
cuộc chiến tranh từng diễn ra trong lịch sử, Hoa Kỳ lần này cũng sở hữu
được một thứ vũ khí bí mật. Vũ khí tài chính đó mang cái tên khá “sượng” là
“nới lỏng định lượng” (QE), còn về căn bản đó là sự gia tăng lượng cung
tiền để thổi phồng giá cả của các loại tài sản. Giống như thời 1971, Hoa Kỳ
lần này đã tự mình làm suy yếu đồng đô-la thông qua lạm phát. QE là một
quả bom chính sách được ném xuống nền kinh tế toàn cầu trong năm 2009,
và tiếp theo sau là quả QE2 cũng được ném vào cuối năm 2010. Chúng tác
động nhanh và đáng kể tới hệ thống tiền tệ thế giới. Khi sử dụng biện pháp
nới lỏng định lượng để chuyển lạm phát sang nước ngoài, Hoa Kỳ đã cũng
lúc làm gia tăng cấu trúc chi phí của hầu hết các quốc gia xuất khẩu mạnh và
các nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh trên thế giới.

Dạng thức giản đơn nhất của việc nới lỏng định lượng là in tiền. Để “tạo

ra tiền từ không khí”, Cục Dự trữ Liên bang mua lại các chứng khoán nợ của
Bộ Ngân khố, từ một nhóm các ngân hàng được chọn lọc gọi là các “trung
gian sơ cấp”. Nhóm các trung gian sơ cấp này lại có các khách hàng căn bản
trên toàn cầu, bao gồm các quỹ đầu tư quốc gia (SWF), các ngân hàng trung
ương, các quỹ hưu trí, các định chế đầu tư và cả những cá nhân giàu có (tạm

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.