vọng, với tay cầm ly rượu và nốc ực một ngụm, anh ho sặc sụa, còn tôi
càng lúc càng thấy vui.
“Anh cũng không biết cách uống rồi,” ông Tròn Vo nhìn Adam, có phần
chê bai. “Vấn đề chỉ là kinh nghiệm. Có một hồi tôi sang Thụy Điển, là vì
không thể kiếm được việc làm ở Ba Lan này, vì tôi... anh chị biết không,”
ông khách cúi rạp người vẻ chân thành, rồi bỗng nhiên cười khúc khích, “...
vì tôi chẳng làm nổi trò trống gì! Tôi từng viết báo, viết truyện tiếu lâm cho
một tờ báo địa phương, tờ báo này sau đó bị phá sản. Tôi phải chuồn sang
Thụy Điển, đi hái quả rừng kiếm sống. Ở đó tôi đã học cách uống rượu.
Nhưng dần dà tôi gặp khó khăn vì nghiện rượu, quả tôi hái cũng chẳng
được nhiều. Rồi có lần tôi thấy thèm khoai tây. Nhưng khoai tây thì rất đắt.
Với lại, thưa anh chị, khi ấy tôi ở sâu trong rừng. Ngày nọ tôi đang lang
thang trong rừng, thì bỗng phát hiện thấy trước mắt có một củ khoai tây.
Tôi bèn đá củ khoai...” ông khách quan sát ánh mắt Adam và nhanh chóng
chữa lời, “... nhưng không phải vì tức, mà vì trân trọng. Củ khoai lăn lông
lốc, tôi nhìn sang thấy cạnh đó lù lù một đống khoai tây. Người Thụy Điển
nào đó đã vứt chúng đi. Tôi bèn đem đống khoai tây đó về nhà bán, kiếm
được nhiều hơn là đi hái quả. Ôi, đó là cái thời...” mắt ông ta mơ màng.
“Bây giờ ở nước ngoài ta không thể kiếm được như vậy nữa... như hồi
trước... thưa với chị, chỉ cần bảy đô la thôi là có thể sống cả tháng trời...”
Càng lúc tôi càng thích ông Tròn Vo này. Tiếc thay, tôi vẫn nhớ thời bao
cấp đó, còn ông ta lại tưởng là không, và chính điều này khiến tôi cực thích
ông ta, nhất là khi rượu đang làm bụng tôi nóng ran. Tôi quan sát cái quán
dễ thương với những bức tranh đẹp treo trên tường, rốt cuộc tôi không cảm
thấy lạnh lẽo và khó chịu nữa. Chúng tôi sẽ về nhà, tôi và Xanh Lơ sẽ ân ái
trên giường, sẽ không ai làm phiền chúng tôi, thậm chí suốt cả ngày mai
chúng tôi có thể không cần phải dậy.
“Có điều...” ông Tròn Vo lấy tay chùi miệng, “đó là lần đầu tiên tôi sống
xa vợ. Những chuyến đi nước ngoài chẳng giúp được gì cho gia đình, nhỉ?”