khi chúng ta chỉ hấp tấp nhảy từ suy xét
này sang một suy xét khác, qua đó dung
túng cho nỗi ác cảm về sự bất an tinh
thần nhằm lờ đi khoảng cách đó; hoặc,
chúng ta chỉ khăng khăng để ý đến đoạn
đường đã đi qua khi cố gắng kết nối các
khoảng cách. Ngắn gọn, chúng ta thừa
nhận bất kỳ gợi ý nào tỏ ra hợp lý; hoặc
ta có thể truy lùng những nhân tố khác,
những khó khăn mới để xem liệu kết
luận gợi ra có thực sự kết thúc được vấn
đề không. Phương pháp sau liên quan tới
sự hình thành dứt khoát những liên hệ
nối kết hay sự xác quyết một nguyên lý,
hoặc, theo ngôn từ logic, tới sự sử dụng
một cái phổ quát. Nếu chúng ta tạo dựng
được hẳn một tình thế trọn vẹn như vậy,
những dữ kiện gốc được chuyển thành
những tiền đề lý luận; còn niềm tin sau
cùng trở thành một kết luận hữu lý hoặc
hợp logic chứ không chỉ là một kết cục
theo-thực-tế (de facto).
Tính liên tục của mối liên hệ là chỉ báo cho điều sau
Tầm quan trọng của những liên kết
ràng buộc những phần tử biệt lập thành
một toàn thể đơn nhất mạch lạc được
thể hiện trong tất cả những mệnh đề chỉ
ra mối quan hệ giữa những tiền đề và kết
luận. (1) Những tiền đề ấy gọi là các căn
cứ, nền tảng, cơ sở và được coi như có
tác dụng nâng đỡ, neo giữ, hỗ trợ cho