phó trước những vấn đề tương tự xảy ra
trong tương lai một cách mau mắn và
hữu hiệu hơn. Bằng cách này, một
phương pháp ít nhiều minh bạch dần dần
được tạo dựng (so sánh với thảo luận ở
phần trước tr.106 về cái tâm lý và cái
hợp logic).
Tuy nhiên, có một giả định phổ
biến cho rằng trừ phi người học trò ngay
từ ban đầu chủ động nhận thức được và
công khai phát biểu ra phương pháp
được ẩn chứa một cách hợp lẽ trong kết
quả mà cậu ta cần đạt tới, còn không thì
cậu ta sẽ không có được phương pháp,
và tâm trí cậu ta sẽ vận động một cách
lộn xộn hoặc hỗn loạn; trong khi nếu cậu
ta cùng lúc vừa học một điều gì vừa chủ
động đưa ra một dạng trình tự nào đó
(một phác thảo, phân tích đề tài, danh
sách đề mục và tiểu mục, công thức
đồng nhất) thì khi ấy tâm trí của cậu ta
được củng cố và tăng cường. Thực tế, sự
phát triển của một thái độ và thói quen
hợp logic từ trong vô thức phải diễn ra
trước. Việc chủ tâm đưa ra phương pháp
phù hợp về mặt logic nhằm vươn đến
một kết quả chỉ khả dĩ sau khi kết quả
đó đã được nhắm tới ngay từ ban đầu
thông qua những phương pháp có tính
tạm thời và ít dụng ý hơn, trong khi nó
chỉ có giá trị khi nào việc xét duyệt lại