không chỉ tách bạch những ý nghĩa cụ
thể và riêng biệt mà chúng còn là những
công cụ nhóm họp những ý nghĩa có liên
hệ đến nhau. Ngôn từ không chỉ là
những tên gọi hay danh hiệu cho những
ý nghĩa đơn nhất; chúng còn hình thành
nên những câu ở đó các ý nghĩa được tổ
chức trong mối quan hệ qua lại. Khi
chúng ta nói “Cuốn sách kia là một
quyển từ điển”, hay “Quầng sáng mờ
trên cao kia là sao chổi Halley”, chúng
ta diễn đạt một sự nối kết theo logic –
một hành vi phân loại và định nghĩa
vượt quá phạm vi vật chất cụ thể sang
địa hạt luận lý của các bộ và các loài,
các sự vật và các thuộc tính. Những
mệnh đề, những câu có mối liên hệ với
những xét đoán giống như mối liên hệ
mà các từ riêng biệt, vốn dĩ được tạo ra
chủ yếu thông qua việc phân tích các
mệnh đề ở những dạng khác nhau của
chúng, mang tới cho các ý nghĩa và quan
niệm; và cũng giống như việc ngôn từ
hàm nghĩa cho câu, một câu hàm nghĩa
một ý tứ trọn vẹn lớn hơn trong một
diễn ngôn liền mạch mà nó nhập vào
trong đó. Như người ta thường nói, ngữ
pháp biểu hiện cho logic vô thức của trí
óc bình dân. Những sự phân loại trí tuệ
chính yếu tạo thành luồng vốn lưu động
cho trí nghĩ được xây đắp nên cho
chúng ta bằng tiếng mẹ đẻ. Chính sự