cùng với bản chất của việc suy tư. Ở đâu
có ý nghĩ, cái có mặt gợi ra và chỉ ra cái
vắng mặt. Theo đó trừ phi cái quen
thuộc xuất hiện trong những điều kiện
xét về một số mặt là khác thường, nó
không gây tác dụng suy nghĩ, nó không
yêu sách cái thiếu vắng để có được hiểu
biết. Và nếu chủ đề hiện hữu là hoàn
toàn xa lạ, không có căn cứ nào trên đó
nó có thể gợi ra điều gì giúp ích cho việc
nhận thức ra nó. Khi một người mới lần
đầu gặp phải các phân số, ví dụ thế,
chúng là một mớ rối rắm vì chúng
không cho thấy mối liên hệ nào giống
như những gì người đó nắm được về các
số nguyên. Khi các phân số đã trở nên
hoàn toàn quen thuộc, ý niệm của anh ta
về chúng giống như tín hiệu để làm điều
gì đó; chúng là những “dấu hiệu thay
thế”, mà anh ta có thể đáp lại không cần
suy nghĩ. Tuy nhiên, nếu tình thế nguyên
vẹn cho thấy điều gì mới lạ và do đó trở
nên không chắc chắn, sự đáp trả trọn vẹn
sẽ không máy móc, bởi lẽ sự vận hành
máy móc này được sử dụng để giải
quyết một bài toán. Không có điểm kết
thúc cho quá trình xoáy ốc kiểu này: nội
dung xa lạ chuyển hóa qua suy nghĩ
thành một sở tri quen thuộc và trở thành
một nguồn tài nguyên dùng để xét đoán
và hấp thụ những nội dung mới lạ khác.