Thật vậy, trong câu chuyện đi tìm mộ Hồ Quý Ly quanh bàn trà ở
nhà ông Đỗ Đình Truật, anh bạn nhà báo đã nhắc ở bài trước nêu lên
nhiều con “số một” khác mà Hồ Quý Ly “sở hữu” lúc sinh thời. Trong
đó có điều chắc hẳn đã làm nhà Minh phải chột dạ như: ông quyết
định đưa chữ Nôm vào sinh hoạt văn hóa nước Việt, hạn chế chữ Hán
trong các văn bản hành chánh. Ông lại là ông vua duy nhất trong lịch
sử vương triều Việt Nam dám lên tiếng “chỉnh sửa” vị trí và chỉ trích
các vị tôn túc trong truyền thống Nho giáo Trung Quốc.
Điều đó đã được Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ
Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (NXB Thế Giới, bộ mới,
2004) nêu rõ: “Về văn hóa và tư tưởng, họ Hồ cũng là người có đâu
óc mạnh dạn. Ông viết sách Minh đạo (làm sáng tỏ đạo, 1392) duyệt
lại Nho giáo một cách hệ thống: xếp Chu Công lên trên Khổng Tử,
nêu 4 điểm đáng ngờ trong sách Luận Ngữ. Ông coi Mạnh Tử, Hàn
Dữ, Trình, Chu là những nhà Nho “trộm cắp”, các nhà Tống Nho
khấc học rộng nhưng tài ít, chỉ chuyên nghề “sao chép” văn chương
tư tưởng người khác. Ông còn dịch thiên “Vô dật” trong Kinh Thư ra
tiếng Việt (1395) để dạy vua. Tất nhiên, xét cho cùng, những sự phê
phán sắc sảo nói trên củng không thực tế bao nhiêu, vì tư tưởng Hồ
Quý Ly trước sau vẫn không thoát ly Nho giáo. Nhưng chủ trương của
ông về việc dùng chữ Nôm thay chữ Hán trong các công văn, chiếu
sắc thì thật mối mẻ, giàu tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một học
phong mang bản sắc riêng của người Việt, và muốn tự cường đất
nước. Ông còn chú ý đến giáo dục, cho mở khoa thi Hội ngay sau khi
lên ngôi vua (1400) để chọn người hiền tài”.
Ông cũng là người đầu tiên - người “số một” cho in tiền giấy trong
lịch sử phát hành tiền tệ Việt Nam. Với những “số một” như thế, ông
không khỏi đối diện với nhiều bất trắc trong nội bộ vương triều, lẫn
bên ngoài xã hội, vốn đã quen với những nền nếp lâu đời. Và cuối
cùng, là người lãnh đạo cao nhất trong cuộc kháng chiến, khi thất bại