cập tới, xin phép trích dẫn và tóm lược các ý chính nêu sau.
Về cách chế tạo hỏa khí của người Việt Nam, Minh sử chép: “dùng
đồng đỏ ở mức độ giữa sống và chín, nếu dùng sắt thì sắt xây dựng
mểm hơn, sắt Tây kém hơn. To nhỏ khác nhau, thứ lớn dùng xe, thứ
nhỏ dùng giá, dùng bệ, vác vai. Thứ lớn lợi cho phòng thủ, thứ nhỏ lợi
cho chiến đấu, tùy nghi mà dùng, là thứ vũ khí chủ yếu khỉ hành
quân”. Về uy lực mô tả: “khi Thành Tổ thân chinh Mạc Bắc (chỉ
Mông Cổ) dùng súng thẩn An Nam vừa bắt được, kẻ địch một người
tiến lên, lại hai người nữa tiếp theo, đêu trúng súng (đạn) mà chết”.
Cho nên Trung Quốc có súng trường là từ khi “bình Giao Chỉ” thời
Vĩnh Lạc, chứ không phải truyền từ Nhật vào ở thời Gia Tĩnh (1522 -
1566) được. Thời đó không những có súng trường (tức súng thần Giao
Chỉ) mà còn có đại pháo (tức pháo thần Giao Chỉ). Pháo đồng, pháo
sắt, chủng loại lớn nhỏ khác nhau.
Trên Trận đồ kỷ yếu do Tào Phi vẽ đời Thiên Khải (1621- 1627) ghi
chú: “Đây là thứ lấy được khi bình An Nam (Việt Nam), dưới tiễn có
nẩy gỗ và đặt các thứ đạn chỉ, chỗ kỳ diệu là dùng gỗ thiết mộc, nặng
mà mạnh”. Hình dạng giống tiễn, không giống súng, nên là một loại
hỏa tiễn của Giao Chỉ. Về người chế tạo thứ vũ khí này, sử sách đời
Minh cho biết: “Trừng dâng cách chế tạo súng thần”, “Trừng chuyên
đôn đốc chế tạo súng, tiễn, thuốc súng”, “Trừng chuyển quản hỏa khí,
quân khí”. “Triều ta dùng hỏa khí chống địch là loại chiến cụ hàng
đầu xưa nay mà sự nhẹ nhàng thẩn diệu của nó thực là mới lấy được
khi dùng Lê Trừng, con vua nước Việt, tướng quốc ngụy làm quan bộ
Công, chuyên trách đôn đốc chế tạo, truyền hết tài năng. Và: “Từ khỉ
có thứ bỉnh khí đó, Trung Quôc đắc chí với Tử Di - đánh thắng địch là
dựa vào súng thần - thứ mà kẻ địch sợ nhất”.
Qua đó, biết Hồ Nguyên Trừng, Tả Tướng quốc nhà Hồ, là người đã
sáng chế thứ vũ khí tỗi tân mà người Trung Quốc gọi là “súng thần”,
“pháo thần” hay “hỏa tiễn”, được coi là “nhất thiên hạ” thời đó khiến
các nước láng giềng “khiếp sợ”, được quân đội Trung Hoa tôn là “thần