– Năm Đinh Mùi (1343) gặp hạn hán, mất mùa, nhân dân đói khổ
nổi dậy khắp nơi, nhất là gia nô của các vương hầu, quý tộc.
– Tháng 2 năm Giáp Thân (1344), Ngô Bệ đứng đầu một tổ chức
cướp nổi lên ở núi Yên Phụ (Hải Hưng), năm sau thì quân triều đình
dẹp tan. Rồi 14 năm sau (1358), lực lượng của Ngô Bệ lại phục hồi,
nổi lên ở núi Yên Phụ, dựng cờ yết bảng nêu khẩu hiệu cứu giúp dân
nghèo. Tổ chức của Ngô Bệ chiếm giữ được một vùng rộng lớn từ
Thiên Liêu đến Chí Linh. Đến tháng 3 năm Canh Tý (1360), quân địa
phương vây bắt được Ngô Bệ. Bệ chạy trốn định về kinh sư đầu thú
nhưng các quan ở lộ đã bắt được Bệ cùng 30 thuộc hạ, đóng cũi giải
về kinh và đều bị chém cả...
– Tháng 5 năm Bính Tuất (1346), Ai Lao vào cướp ở biên giới.
– Năm Giáp Ngọ (1354), gặp nạn đói lớn, có người tên Tề tự xưng
là cháu ngoại của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, tụ tập gia nô
của các vương hầu, quý tộc bỏ trốn làm giặc, nổi dậy cướp phá một
vùng rộng lớn từ Lạng Giang (Hà Bắc, Lạng Sơn) đến Nam Sách (Hải
Hưng, Hải Phòng).
Càng ngày số gia nô bỏ trốn theo lực lượng cướp bóc càng nhiều
nên tháng 12 năm Canh Tý (1360), vua Trần Phế Đế phải xuống chiếu
ra lệnh bắt các gia nô của các nhà vương hầu, công chúa đều phải
thích chữ vào trán và phải gọi theo loại hàm. Gia nô nào không thích
chữ, không khai vào sổ hộ tịch đều bị coi là giặc cướp, lớn thì bị bắt trị
tội, nhỏ thì sung công.
– Năm Quý Sửu (1373), giặc cướp lại đua nhau nổi dậy.
– Tháng 2 năm Kỷ Mùi (1379), sau vụ hạn hán và đói lớn xảy ra
năm 1378, triều đình lại tăng thuế, bắt đinh nam dù có ruộng hoặc
không có ruộng đều phải nộp thuế. Nguyễn Bồ đã phất cờ nổi dậy ở
Bắc Giang, tự xưng là Đường Lang Tử Y, dùng pháp thuật để tập hợp
nhân dân nhưng cuộc bạo loạn đã bị dập tắt nhanh chóng.
– Tháng 4 năm Tân Dậu (1381), nhân khi Chiêm Thành vào cướp
phá, một người ở Diễn Châu tên là Hồ Thuật đã chiêu tập nhân dân