một số điện thoại, ngoài ra cũng không hề có một ghi chép gì khác. Tôi,
Ca-bi-sếch và Béc-na-sếch ra sức tìm kiếm trong một số vật chứng ít ỏi ấy.
- Có thể, nên đến nhà Gô-li-kô-va. Tôi đã gọi bộ phận kỹ thuật, chỉ lát
nữa họ sẽ tới…
- Rất tốt. Họ đến, thì cậu nên đi ngay với họ. Còn thử nói chuyện một
lần nữa với cô ta, để hỏi xem cô ta đã làm gì ngày hôm qua.
Tôi gõ cửa phòng bên cạnh. Tôi phải gõ tới ba lần mới nghe thấy tiếng
trả lời “mời vào”!
Gô-li-kô-va ngồi trên ghế đi văng, bên cạnh, một chiếc đèn bàn còn
sáng. Hai má cô đẫm nước mắt.
- Nếu quả thực lương tâm cô trong sạch và cô muốn sớm được trả lại
tình trạng yên ổn, mong cô hãy kể tất cả những gì mà cô biết đi…
Cô ta đứng dậy, lặng lẽ đặt lên bàn cái xắc bằng da cá sấu:
- Chìa khóa ở trong xắc. Đằng nào thì mọi người cũng sẽ biết chuyện
cả, vậy mời các ông cứ đến đó mà lục soát đi…
Tôi lưu ý đến chiếc đồng hồ vàng mà cô ta khẽ đưa mắt liếc nhìn.
- Quà tặng cô à?
- Thế thì đã sao? - Cô ta cắt ngang.
Trong xắc còn một số đồ lặt vặt mà phụ nữ thường mang. Tôi hỏi lại
rằng Pích-le đã mặc bộ quần áo nào đêm ấy, khi ở lại nhà cô. Cô nói là bộ
com-plê ghi sắm và chiếc áo mưa kiểu Bô-lô-nhơ. Cô ta lại nhìn đồng hồ.
Cô ta vội đi đâu nhỉ?
Tôi hỏi là Pích-le có nói chuyện với ai vào buổi tối Thứ Hai ở Câu lạc
bộ không và nói chung, ông ta có người quen nào ở Pra-ha không?
- Pích-le là một người đàn ông rất lịch thiệp. Cả buổi tối, ông ấy chỉ
biết có tôi. Ông ấy cũng không nhìn ngó một ai cả chứ đừng nói gì đến trò
chuyện? Ông ấy không quen ai khác ở Pra-ha, đó, ông ấy nói với tôi như
thế. Khi ông ấy đến đây, chỉ có tôi đi với ông ta ở mọi chỗ thôi.