gắng đến như thế để chạy trốn khỏi chính mình. Còn về đôi mắt...”
Ông nhún vai. Mercier là một người cao lớn, đẹp trai ở tuổi năm
mươi, với cái mũi thẳng dài, cà vạt sang trọng, có mái tóc bạc dày,
chải rất khéo. Mười năm đứng đầu cái trung tâm học vấn lớn nhất
nước Pháp đã để lại nơi ông cái phong cách nửa rộng lượng nửa ngạo
mạn của một con người đã đạt đến các giới hạn của tri thức.
“... còn về đôi mắt, Monsieur le ministre, vâng, chính tôi cũng
nhớ về cái mà ông gọi là “ánh sáng” trong cặp mắt anh ta. Tuy vậy, cái
loại ánh sáng như vậy luôn luôn cháy trong mắt của hầu hết những con
người vênh vang, cường điệu - một nỗi vui sướng tuyệt vọng- Ông có
thể thấy điều ấy nơi cặp mắt của Picasso - tôi không có ý định gì bất
kính về vị thiên tài người Pháp - Tây Ban Nha này đâu, xin hiểu cho.
Nhưng tôi nghĩ rằng Mathieu đã chết.”
Viên đại tá phải cố sức lắm mới giữ được tư thế ngồi, không bị
chìm lỉm vào chiếc ghế nệm, “Chết thì không, nhưng bị chôn vùi.
Chôn vùi sâu bên trong con người tự xưng là Cohn. Có một số chứng
cớ khác. Chắc quí vị đây đều biết, ngay từ khi còn là sinh viên,
Mathieu đã có một mối gắn kết kỳ lạ với Gauguin. Anh ta đã thờ
phụng, theo đúng nghĩa đen, một ấn bản của bức chân dung tự họa của
Gauguin, treo trên bàn khi còn ở Collège de France. Rõ ràng anh ta
thấy nơi Gauguin sự hóa thân của một tinh thần ngây thơ nguyên thủy
nào đó. Mathieu bị ám ảnh bởi cái mà chính anh ta gọi là “tội ác hủy
hoại môi trường, hủy hoại chính không khí mà ta thở, hủy hoại chính
bản chất con người.” Anh ta đã kêu gọi hàng trăm nhà khoa học ký tên
vào “Tuyên ngôn 1966” chống lại “sự cưỡng hiếp đời sống của công
nghệ và kỹ thuật.”
“Karkhoff”, Malraux chêm vào.
Viên đại tá đưa mắt nhìn ông, chưng hửng, trong khi Mercier gật
đầu, “Con người nổi tiếng nhất trong tất cả những kẻ phản kháng từ
lương thức đó.”