Những chiếc thuyền độc mộc nằm trong vũng nước cạn. Sóng vỗ
nhẹ vào mạn thuyền rong rêu. Cohn cố cưỡng lại nỗi cám dỗ muốn
nhảy vào những chiếc thuyền đó rồi bỏ bờ biển lại phía sau. Bởi đằng
nào thì y cũng phải quay trở lại. Đại dương vô tận chỉ là một ảo ảnh,
và đó là lý do y đành phải luôn luôn mang cái mũ lưỡi trai để tự nhắc
nhở mình.
Sóng biển càu nhàu đập vào mỏm đá như phụ họa theo con tim
cáu giận của Cohn. Cả thế giới san hô bị chìm lấp dưới làn thủy triều,
rồi rút đi, để lại trên mép biển một con dã tràng cuống quýt chạy về tổ
trú ẩn. Những mảnh thiếc bọc quanh thân dừa - để khỏi bị chuột gặm -
phản chiếu lấp lánh ánh sáng bạc của bình minh, trông giống như vầng
hào quang mà những người thợ thời Phục Hưng đã đặt lên đầu các
tượng thánh.
Từ một chiếc thuyền câu bỏ hoang trong rừng dừa, có một bóng
người nhô lên, thụp xuống, rồi bỏ đi. Cohn nhận ra một khuôn mặt
quen thuộc: cái di sản giả mạo mà cuộc hành trình sử thi của
Hayerdhal đã để lại trên quần đảo Polynesie. Đó là “thuyền trưởng”
Skip Ellis, một gã bịp chuyên nặn túi tiền của du khách bằng cách tự
xưng mình là một trong những thành viên của đoàn thám hiểm trên
chiếc bè Kon-Tiki nổi tiếng.
Dàn trống tamure vẫn chơi những nhịp cuồng loạn, nhưng giờ
đây, khi đêm đã tàn, khi ánh sáng hồng của bình minh bắt đầu hiện
lên, âm thanh nghe như tiếng thở nặng nề của một người làm tình đã
kiệt sức, vừa không kết thúc nổi, vừa không muốn bỏ cuộc. Cohn đột
nhiên cảm thấy bực tức vì hình ảnh chiếc thuyền độc mộc treo lơ lửng
giữa trời và biển, trong một vũ trụ nhuốm hồng như đang sẵn sàng cho
lễ hội mừng rạng đông của miền nhiệt đới. Màu sắc địa phương hơi
quá đà. Meeva cũng vậy. Sau khi đã hoan lạc suốt đêm, giờ đây ả
không làm tình theo kiểu đón nhận nữa, mà theo cách “tự phục vụ.”
“Được rồi, tiếp đi, cô tự làm đấy”, Cohn nói, người lún sâu xuống
cát do sức nặng của Meeva đè lên y.