rất lâu. Thế nên cô liền lẻn vào bãi đỗ xe của Công ty Davett, gọi tới cái
công ty cho thuê xe kia và luồn chiếc điện thoại, đang đổ đoạn nhạc lê thê
của Muzak, vào phía sau chiếc xe tải cỡ nhỏ không người lái, vẫn để nổ
máy, đỗ đằng trước lối vào dành cho nhân viên.
Mánh khoé đó rõ ràng đã có tác dụng. Tốp cảnh sát xuất phát đuổi theo
chiếc xe tải khi nó rời khỏi khu vực nhà máy.
Trong lúc gỡ lớp ngụy trang, Sachs hỏi: “Chất amomnia? Và cái hố bỏ
tổ ong bắp cày? Cậu cũng học từ lũ côn trùng hả?”.
“Vâng”, Garrett nói.
“Cậu không định làm hại ai cả, phải không?”
“Không, không, cái hố bắt chước loài kiến sư tử chỉ để doạ các người
thôi, để các người đi chậm lại. Vì thế tôi đã bỏ một chiếc tổ không vào.
Chai ammonia là để cảnh báo sớm đối với chúng.” Cặp mắt đỏ quạch, ướt
nhoèn của Garrett lấp lánh ánh ngưỡng mộ lạ lùng. “Thật thú vị, việc cô đã
làm ấy, tìm thấy tôi tại cối xay. Tôi, nói chung, không bao giờ nghĩ cô lại
đến đó nhanh vậy.”
“Và cậu bố trí những chứng cứ giả trong cối xay – tấm bản đồ và chỗ cát
– để chúng tôi bị lạc hướng.”
“Vâng, tôi đã bảo cô – côn trùng khôn khéo lắm. Chúng bắt buộc phải
khôn khéo.”
Họ gỡ xong lớp ngụy trang của con thuyền trông xạc xài. Nó được sơn
màu xám sẫm, dài chừng mười feet và có một động cơ nhỏ gắn bên ngoài
thân. Trong lòng thuyền là chục chai nhựa dung tích một ga lông đựng nước
suối và một hộp giữ lạnh. Sachs mở một chai nước, uống luôn mươi ngụm
đầy. Cô đưa cái chai cho Garrett và gã cũng uống. Rồi gã mở hộp giữ lạnh.
Bên trong là các gói bích quy và khoai tây chiên. Gã xem xét chúng kỹ
lưỡng để chắc chắn rằng chúng vẫn còn đầy đủ và không bị hư hỏng. Gã gật
đầu, rồi trèo vào trong thuyền.
Sachs trèo vào theo, ngồi quay lưng về phía mũi thuyền, đối diện
Garrett. Gã nhoẻn nụ cười hiểu biết, y như thể nhận ra là cô chưa đủ tin
tưởng để ngồi quay lưng lại với gã. Gã giật sợi dây khởi động máy. Máy