đầy ẩn ý, “chúng không mang những bộ mặt giả vờ. Giống như chúng ta”.
Gã cất tiếng cười kì cục - Sachs chưa nghe thấy tiếng cười kiểu ấy bao giờ.
Garrett nhẹ nhàng đu qua mạn xuồng bước xuống nước và kéo chiếc
xuồng lên bờ. Sachs trèo ra. Gã dẫn cô đi xuyên rừng và dường như biết
chính xác sẽ phải đi đến đâu bất chấp bóng tối chạng vạng và không có lối
mòn nào mà cô trông thấy được cả.
“Làm sao cậu biết phải đi đến đâu?”, Sachs hỏi.
Garrett nói: “Tôi cho rằng tôi là loài Vương Điệp. Tôi có khả năng xác
định phương hướng khá tốt”.
“Vương Điệp?”.
“Cô biết đấy, một loài bướm ấy mà. Chúng di cư xa cả nghìn dặm và
biết chính xác phải bay đến đâu. Thực sự rất hay nhé – chúng xác định
phương hướng theo mặt trời và tự động đổi đường bay phụ thuộc vào
đường chân trời. Ồ, và khi trời u ám hoặc đêm tối, chúng sử dụng một giác
quan khác – chúng cảm nhận được từ trường của trái đất”.
Khi một con dơi phóng ra một chùm âm thanh để tìm kiếm chúng, những
con bướm đêm liền gấp cánh lại và thả mình rơi xuống đất, ẩn trốn.
Sachs đang mỉm cười trước bài giảng đầy nhiệt tình của Garrett thì cô
đột ngột ngưng lại, khom mình xuống. “Nhìn kìa”, cô thì thầm. “Kia kìa!
Có ánh sáng”.
Vùng ánh sáng yếu ớt phản chiếu trên mặt một cái ao âm u. Thứ ánh
sáng màu vàng đáng sợ trông giống như ánh đèn lồng sắp tắt.
Nhưng Garrett cười to.
Sachs nhìn gã dò hỏi.
Gã nói: “Chỉ là một hồn ma thôi”.
“Cái gì?”, Sachs hỏi.
“Đó là Thủy nữ Đầm lầy. Nói chung, cái cô gái Anh điêng này đã chết
vào đêm trước lễ cưới. Hồn ma cô ta vẫn lội khắp đầm lầy Sầu Thảm tìm
kiếm người con trai mà cô ta đáng lẽ sẽ lấy làm chồng. Chúng ta đang
không ở khu vực đầm lầy Sầu Thảm, nhưng nó cũng gần đây”. Garrett hất
đầu về phía ánh sáng mờ đục. “Thực ra thì đó chỉ là hiện tượng phát quang
sinh học – một loài nấm khổng lồ phát sáng”.