trách một lời nào. Trái lại tên ‘áo xanh’ tức khắc bị chuyển sang trại khác và
sau hai tuần lễ nghe tin hắn chết vì bị đâm bởi một người nào đó. Vài anh
lính hầu như lờ đi hoặc ít ra họ cũng sẵn sàng tha thứ những việc đã xảy ra,
tôi nghĩ họ đủ thông minh để đoán trước những hành động sởn óc này.
Nhiều anh lính đối xử với tù nhân cũng tốt. Nhất là những anh bán heroin
thường được bọn tù kính nể vì ít ra họ cũng giúp chúng tôi chịu đựng cho
qua ngày. Nhưng nói chung thì không thể nào tin cậy đến mức độ có thể đến
quá gần.
Trong trại này, tôi làm bạn khá thân với một anh lính nhưng sau một thời
gian thái độ hắn thay đổi vì lý do gì tôi không biết. Ngày hôm trước giờ tắm
giặt, hắn bước đến gần chỗ tôi và hỏi tôi có khỏe không. Tôi chưa kịp trả lời
thì bất ngờ hắn tát vào mặt tôi thật mạnh làm tôi cuộn người lại và thối lui.
Khi liếc nhìn lên tôi thấy hắn mỉm cười. Tôi hỏi có chuyện gì xảy ra, hắn
không nói tiếng nào, bộ mặt mang một nụ cười rất đáng ghét. Tôi nói nếu
chơi vậy một lần nữa tôi sẽ đập hắn gục ngay. Hắn cũng chẳng nói chẳng
rằng, vừa cười vừa bỏ đi. Tôi kinh hãi trước cử chỉ này, nó như thể báo trước
một điềm không hay.
Gần một tuần rồi tôi không thấy hắn ta. Lúc dò hỏi ra thì hắn đã về nhà
được hai ngày sau lần tôi và hắn đấu khẩu để ăn cơm tối với gia đình. Khi
gia đình hắn đang ăn thì có tiếng gõ cửa. Người vợ ra mở. Người lạ đòi gặp
mặt anh chồng. Hắn vừa bước ra thì bị một phát súng bắn ngay vào cổ. Từ
đó, chúng tôi không gặp hắn ở Bang Kwang nữa, mặc dù hắn còn sống
nhưng cả cuộc đời còn lại chỉ ngồi trên xe lăn vì viên đạn xuyên qua đốt
sống cổ làm tê liệt cả hai chân.
Như tôi đã nói, những anh lính đủ khôn ngoan thì không nên thân mật với
tù nhân và cũng đừng để khét tiếng là độc ác.
Hôm nọ, một anh lính tên Chom đi ra sân thể dục, gọi là sân nhưng thật ra
nó nhỏ xíu không đủ cho tất cả tù nhân vào tập, thì thấy một anh tù tỏ vẻ
chểnh mảng. Hắn bước đến đánh anh ta trước bao cặp mắt ngạc nhiên cho