không có nắp đậy và các bãi rác gần đó xông lên. Tòa nhà thẳng phía trước
mặt có bảng đề, khu I: khu Truyền giáo.
Đầu óc tôi quay cuồng và hai chân hầu như không còn đứng vững nữa.
Sau khi bị truy tố, Lão Già thuyết phục các bác sỹ cho tháo xiềng ra. Họ
chấp thuận chỉ vì lý do tuổi tác. Còn tôi và Paul thì phải mang cùm ít nhất
trong một tháng. Điều này chẳng lấy gì làm ngạc nhiên bởi vì tới ngày hôm
nay sợi dây xích được coi như một phần thân thể tôi rồi.
Trước khi chuyển về nhà mới ở trại II, Paul và tôi được nghe thuyết giảng
về nội quy ở đây. Cũng chẳng khác gì những trại tù khác: 6 giờ thức dậy làm
vệ sinh, ăn sáng và ngồi ngoài sân cho tới xế chiều khi đó mới trở lại xà lim.
Chúng tôi được cho biết có ba loại hình phạt: Trại VI, nơi nhốt vĩnh viễn
những người đặc biệt gây khó khăn; biệt giam, hoặc cho vào khun deo,
những xà lim nhỏ xíu giống như ở Maha Chai hay vào phòng đỏ, chỉ chừng
hai mét vuông, nhưng còn hơn là bị cô lập trong nhà đá lạnh lẽo của khun
deo. Còn vài hình thức trừng phạt khác nữa mà người ta không nói đến khi
chúng tôi ‘bị’ thuyết giảng. Những cái đó sẽ biết sau.
*
* *
Cái sân ở Bang Kwang hình như nhỏ hơn sân của các nhà tù khác, nhưng
có lẽ đây là ảo giác do số lượng tù nhân quá nhiều. Không thể tin được nó
đông đến mức nếu bạn không ra sân sớm thì sẽ chẳng có chỗ ngồi, mặc dù
không hề có mục đích gì trong việc ngồi này cả, chỉ ngồi khơi khơi vậy thôi.
Phòng giam không có giường chỉ lấy rơm lót để nằm, còn gối dưới hình
thức nào cũng không được phép. Nhà tù nóng hầm hập và đầy bọ chét.
Trong vòng có mấy ngày mà đầu tôi đã sinh chí, buộc lòng tôi phải cạo trọc.
Tất cả các loại nước mà chúng tôi tùy nghi sử dụng ở đây được cung cấp
bởi con sông của địa phương. Con sông này còn nhỏ hơn một dòng suối;
nước đỏ quạch, đục ngầu và đầy rác rưởi. Nó được bơm lên qua một ống dẫn
theo hướng chảy của ống cống nhà tù; chúng tôi uống và tắm giặt bằng nước
thải của chính mình. Có một lần tôi thấy họ thay nước ở các bể chứa bằng